Thứ Tư, 29 tháng 1, 2014

KHÉT LÈN LẸT :D

 THAM LAM, KIÊU NGẠO, ĐỐ KỊ LÀ BA  ĐỐM LỬA THIÊU CHÁY LÒNG NGƯỜI  - Dante

Đương rõ là tâm trạng ,ấy vậy mà lúc bước ra xe ,dòm thấy cái cào tuyết kính xe  màu xanh biển,còn mới toanh nhá, rơi trên đống tuyết sát cửa xe  ,Mụ...cẫng lên  cười toe toét la lối  khoe với  xã.Nào ngờ gã ấy ...quẳng luôn rất phũ vào mặt vợ rằng, cái đó anh mới mua,chắc lúc em mở cửa nó rơi ra đó mà!
 AK AK !Cười dở phanh gấp cắn trúng lưỡi .Đau sờ cau!
Trước Mụ đã rất...trơ tráo  thú rằng ở Mụ chã hề có tị nào đốm  kiêu ngạo, đố kị(Thề :D), cơ mà đốm tham lam thì nhiều lần cũng tự... ngửi thấy mùi khê khét.Dưng vụ này thì  mới thật là ...mất mặt.Khét lèn lẹt !Nào có đắt đỏ gì cho cam.Có hai chục nghìn tiền ta cái cào tuyết ấy,mà sao Mụ...  phởn  được đến dư thế ? Mụ thật là ...bịnh nặng ! hic! :-))



Đọc tiếp ...

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

CHUYỆN HIỂU LẦM DỄ THƯƠNG





Hôm rồi  băng giá  trắng xóa   trên cây vườn đẹp  như  phim thần thoại.Đưa con gái đi lớp  về  ngang qua hàng hiên  lại quen lệ  dừng chân ngắm  lũ trẻ  lục tục  ăn sáng  như mọi bận, rồi ...giật mình  nhớ  ...
Hôm trước cu con đi đón em về kể cô giáo  bảo con nói với mẹ là hãy yên tâm, ở đây cô luôn nhắc nhở quan tâm  tất cả các cháu,em mình  ngoan tiến bộ nhiều rồi và cũng  ăn uống như chúng bạn,  nói mẹ đừng phải  lo lắng gì  nhé...
Mình...giật mình nhớ đến những lần đần mặt  dòm trộm bọn trẻ qua  cửa sổ ...Ô, ra là cô giáo tưởng mình ......
Cuống lên bảo xã đi đón gái cưng rồi nói lại để cô hiểu cho.Là vợ tôi, mụ... yêu tinh  già  đốc chứng ghiền  trẻ con đó mà :-).
Con gái tôi rât thích đến lớp, rất yêu quí các cô...Chúng tôi yên tâm lắm.Chúng tôi  muốn nói  cảm ơn các cô rất nhiều .......
Mà đúng thế thật.Mỗi lần ngó các con vui chơi trong lớp, ngó những bệ rửa tay ,bệ xí bé tí tẹo, bàn ghế  tí tẹo,đệm nằm cũng be bé xinh xinh....mình  cứ hình dung phim   bảy chú lùn .Và nhiều lần mình  dừng sững   tủm tỉm một mình khi bắt gặp  lũ trẻ mẫu giáo nắm tay nhau đi dạo phố.Có lần thấy công chúa của mình được hai bạn giai tây cao nhớn dắt tay hai bên , một bạn còn  ân cần sửa lại mũ cho cô ả ,yêu không tả nổi...
Rồi thế   nào mình  cũng lại ...lại lẩn thẩn nghĩ  phải chi mà  tất cả  những thiên thần nhỏ  dưới gầm trời này  đều được sống trong  yêu thương hạnh phúc  đủ đầy thế kia...
Đọc tiếp ...

SÁCH HAY - VÔ CÙNG TÀN NHẪN ,VÔ CÙNG YÊU THƯƠNG


SGTT.VN - Đây là cuốn tự truyện về hành trình nuôi dạy ba người con của một bà mẹ đơn thân người Israel.


Sau khi trở về từ Trung Quốc, Sara vẫn là một “bà mẹ Trung Quốc” bao đồng mọi thứ, bà sẵn sàng đáp ứng mọi đòi hỏi của con, lo lắng từng bữa ăn giấc ngủ của con, chỉ mong chúng học hành tử tế. Cho đến khi một hàng xóm thấy chị luôn tay luôn chân hầu hạ các con, bèn quay sang mắng chị: “Em đừng đem kiểu giáo dục đó đến Israel. Cha mẹ có thể cho con cái rất nhiều tình thương, nhưng không thể trưởng thành thay cho con. Vì vậy chúng ta cần phải yêu con có nguyên tắc và có phương pháp”. Những nguyên tắc đó là có làm có hưởng, trì hoãn thoả mãn các yêu cầu của trẻ và không bao đồng, để trẻ tự trải nghiệm, giải quyết các vấn đề của chính mình và trưởng thành.

Sara đã giấu tình yêu đối với các con vào sâu trong lòng, dưới vỏ bọc lạnh lùng có đôi chút tàn nhẫn, và để chúng tự lập, bươn chải mưu sinh cùng mình, từ đó giúp chúng thực sự trưởng thành trên mọi khía cạnh và có được tiền đồ rộng mở. Và kết quả là hai người con đầu của bà đến nay đều trở thành triệu phú trong ngành chế tác và kinh doanh kim cương, con gái út của bà cũng sắp tốt nghiệp một đại học trứ danh. Và trên hết, mối quan hệ giữa người mẹ và ba người con vẫn là một sợi dây bền chặt, yêu thương sâu đậm.

Câu chuyện về hành trình dạy con của gia đình bà Sara, đồng thời cũng là câu chuyện về kỹ năng dạy con trứ danh của dân tộc Do Thái, dân tộc dù phiêu bạt đến bất cứ nơi nào thì sự nghiệp của họ cũng như cá gặp nước. Bởi mấu chốt trong quan điểm giáo dục của người Do Thái là cha mẹ phải truyền lại cho con tố chất và kỹ năng sinh tồn, cũng như tinh thần trách nhiệm đối với bản thân và xã hội. Chính phương pháp giáo dục trong gia đình đã giúp người Do Thái đạt được tỷ lệ thành công đáng ngưỡng mộ.

Phương pháp giáo dục con của Sara, cũng là phương pháp giáo dục con của người Do Thái, thực chất không mấy xa lạ với người Việt, vốn nằm lòng câu tục ngữ “yêu cho roi cho vọt – ghét cho ngọt cho bùi”. Tuy nhiên, dường như phương pháp giáo dục con này đã được truyền thụ không đúng cách hoặc dần bị lãng quên theo thăng trầm của lịch sử.

Cha mẹ có thể cho con cái rất nhiều tình thương, nhưng không thể trưởng thành thay cho con. Vì vậy chúng ta cần phải yêu con có nguyên tắc và có phương pháp”.
Các ông bố bà mẹ Việt hiện nay ngày càng có xu hướng chiều chuộng và dung túng, vô hình chung trở thành những “nô lệ”, “bộ trưởng hậu cần”, “máy rút tiền” của con cái. Họ sẵn sàng làm mọi điều thay con, miễn là chúng chịu học hành ngoan ngoãn (thậm chí không ngoan ngoãn cũng vẫn chiều).
Dẫu biết rằng tình yêu đối với con cái là không có tội, nhưng các bậc phụ huynh cần thực sự biết cách yêu thương, cần phải suy nghĩ cho tiền đồ của chúng, vì tình yêu thương nếu không đặt đúng chỗ, sẽ trở thành tai hoạ cho cả gia đình. Liệu những đứa trẻ quen được bố mẹ chiều chuộng quá đà kia sau khi bước chân vào đường đời, chúng có thể làm được gì khi đã quen có người sắp đặt mọi thứ cho mình? Còn các ông bố bà mẹ, sau bao năm tháng yêu thương vun vén, cam tâm làm “nô lệ cho con”, họ đã mang đến điều gì cho tương lai của con cái?

Đó là hai câu hỏi hết sức nhức nhối mà các bậc phụ huynh cần phải giải đáp. Và tôi cho rằng những bậc phụ huynh này có thể tìm được câu trả lời trong Vô cùng tàn nhẫn vô cùng yêu thương, cuốn sách đã làm mưa làm gió tại thị trường Trung Đông và châu Á, đặc biệt là Trung Quốc.

Sách do Alpha Books và NXB Dân Trí ấn hành. 516 trang, giá bìa: 139.000 đồng.
Việt Hà
Đọc tiếp ...

Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2014

Tình yêu là cốc nước trắng (st)

Rượu, cà phê và trà cũng phải bắt nguồn từ nước. Tình yêu cũng như vậy, cái nồng nàn, ngọt ngào, êm đềm và cay đắng cũng phải xuất phát từ lòng chân thành và những điều giản dị nhất.

Một chàng trai đưa cô bạn gái thân vào quán uống nước. Sau khi người phục vụ đặt hai cốc nước trắng lên bàn và đợi thì cô gái chợt đặt ra một câu hỏi:


- Đố bạn Tình yêu là gì…


Chàng trai mỉm cười quay sang cô phục vụ và nói:


- Chị cho em một ấm trà, một cốc cà phê đen, một cốc cà phê sữa, một ly rượu vang và một ly champagne.


Sau khi mọi thứ đã được mang ra, chàng trai lấy ấm trà và uống chén đầu tiên. Anh ta nói:


- Tình yêu như ấm trà này. Khi ta uống nước đầu sẽ rất đậm đà, nước thứ hai sẽ dìu dịu thanh thanh. Còn nước thứ ba thì sao…


Tình yêu không như ấm trà bởi sau nước thứ ba ấm trà sẽ không còn hương vị ban đầu.


Anh ta lại nhấp một ngụm cà phê đen và nói:


- Tình yêu mang hương vị của cốc cà phê này. Lúc đầu có thể phải trải qua vị đắng nhưng dần dần vị ngọt và thơm sẽ ngấm dần vào mỗi người.


- Nhưng tình yêu không như cốc cà phê sữa. Uống cà phê sữa ta sẽ cảm thấy ngay vị ngọt, vị ngọt của nó đến rất nhanh và đi rất nhanh. Còn tình yêu không như vậy.


Tình yêu là cốc nước trắng 1


Dứt lời anh ta đổ cốc cà phê ấy đi và nói:


- Tình yêu như ly rượu này, nó thật nồng nàn, ấm áp và êm đềm.


Anh ta lại uống ly champagne.


- Không! Tình yêu không thể là thứ nước khai vị chua loét này được.


Chàng trai lo lắng vì không tìm được câu trả lời. Bất chợt anh ta nhìn thấy cốc nước trắng trên bàn. Anh ta reo lên.


- Đúng rồi, hãy nhìn cốc nước kia, nó thật tinh khiết và giản dị. Rượu, cà phê và trà cũng phải bắt nguồn từ nước. Tình yêu cũng như vậy, cái nồng nàn, ngọt ngào, êm đềm và cay đắng cũng phải xuất phát từ lòng chân thành và những điều giản dị nhất. Bạn ạ!


Tình yêu là cốc nước trắng.


Cô gái ngồi im, đôi mắt mở to.


Và rồi cô từ từ nhấc ly nước lên và từ từ đặt vào tay chàng trai.


Chàng trai đã hiểu rằng, anh ta đã có một câu trả lời đúng…
Đọc tiếp ...

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

ĐỪNG LO SỢ PHẠM LỖI (ST)

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường không nhớ rằng sự phạm lỗi thật ra chẳng có gì quan trọng. Ðối với Phật giáo, nếu lỡ làm lỗi thì cũng không sao cả. Chúng ta không bắt buộc phải toàn hảo. Quý vị thấy có đáng mừng không? Vì không phải cần phải toàn hảo, chúng ta mới có thể sống một cách tự nhiên, không phải luôn luôn cần làm những việc phi thường xuất chúng mà không được lầm lỗi. Thật là đáng sợ nếu chúng ta không được phép phạm lỗi, vì khi phạm tội, chúng ta phải tìm cách che dấu. Như vậy, nơi ta sống sẽ không đem lại an lạc nữa. Có người sẽ nói: "Nếu cho phép phạm tội, ta sẽ không học được gì, vì người ta sẽ tiếp tục lầm lỗi thêm mà thôi." Sự thật không phải vậy. Tôi xin đưa ra một ví dụ. Khi tôi còn bé, cha tôi hay nói rằng cho dù phạm bất cứ lỗi gì, tôi cũng không bị đuổi ra khỏi nhà. Nghe vậy, tôi biết cụ thương tôi lắm. Vì thế, tôi càng kính yêu cụ hơn, đến nỗi tôi không dám làm gì để cụ buồn, và tôi lại càng cố gắng để tỏ ra xứng đáng sống bên cụ.Nếu bây giờ ta cũng làm như vậy với mọi người trong gia đình, ta sẽ thấy cuộc sống được tự do, thoải mái và an vui, không bị căng thẳng. Từ đó, tình thương yêu và lòng kính trọng lẫn nhau được phát huy. Vì thế, tôi xin khuyến khích quý vị rằng khi về nhà, quý vị hãy cho phép thân nhân mình được phạm lỗi. Quý vị hãy nói với cha mẹ, vợ chồng hay con cái mình rằng: "Nhà này luôn luôn mở rộng cửa đón nhận người thân. Trái tim này luôn luôn tiếp nhận thân quyến cho dù cha mẹ, vợ chồng hay con cái ta có làm gì sai quấy chăng nữa." Quý vị cũng tự nhủ: "Căn nhà này luôn luôn chào đón ta." Quý vị hãy cho phép mình được sai lầm. Quý vị có biết suốt tuần qua, quý vị đã phạm bao nhiêu lỗi không? Tuy mắc lỗi như vậy, quý vị vẫn là bạn của mình đấy chứ? Chỉ khi nào ta cho phép ta được sai quấy, tâm trí ta mới thảnh thơi được.
Ðó là tình yêu thương, là tâm từ mà Phạn ngữ gọi là metta, một tình yêu thương không điều kiện. Nếu ta chỉ thương yêu kẻ khác khi họ làm theo ý ta thì tình yêu thương đó không có là bao, vì đó chỉ là một sự đổi chác: "Tôi quý anh vì anh sẽ đền bù lại cho tôi."
Trước kia, khi mới đi tu, tôi tưởng các vị sư phải toàn hảo. Tôi tưởng các sư không được phép sai lầm. Tôi nghĩ khi tọa thiền, lưng tôi phải thật ngay thẳng. Nhưng, nếu ngủ dậy từ bốn giờ rưỡi sáng để tham thiền, nhất là nếu hôm trước phải làm việc rất nặng nhọc, tôi tự biết mình sẽ rất mệt mỏi, không ngồi thẳng được, và có thể sẽ bị ngủ gục. Có sao đâu! Mình được phép sai lầm mà! Ta sẽ cảm thấy thoải mái và căng thẳng tan biến khi ta tự cho phép mình được phạm lỗi.
Ta thường khuếch đại lỗi lầm và không nhớ đến những thành quả đã đạt được. Vì thế, ta tạo ra một gánh nặng tội lỗi. Thay vào đó, ta hãy ghi nhớ những thành công tốt đẹp trong đời, ta có thể gọi đó là "Phật tánh" trong ta. Nhờ vậy, ta sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn. Trái lại, nếu chú ý đến lỗi lầm, ta càng tạo thêm nhiều lầm lỗi. Khi chuyên chú vào ý tưởng nào, ý tưởng đó sẽ càng lúc càng lớn mạnh, phải không thưa quý vị? Vì thế, ta hãy ghi nhớ những điều hay, những việc tốt, sự trong sạch, nguồn gốc của tình thương không điều kiện, loại tình thương chỉ muốn cứu giúp, hy sinh an vui bản thân và lo lắng đến tha nhân. Ðó là phương thức ta săn sóc nội tâm. Khi tha thứ, ta sẽ sống thanh cao, trong sạch, hòa ái. Với người khác, chúng ta cũng làm như vậy bằng cách chỉ nhớ đến đức tính tốt của họ và ta sẽ thấy rõ đức tính tốt đó phát triển thêm lên.
Ðó là "nghiệp", mà tiếng Phạn gọi là kamma. Kamma có nghĩa là những hành động qua ý nghĩ, lời nói và việc làm. Chính ta chứ không phải một thần linh nào quyết định sự an vui cho ta. Hạnh phúc nằm trong tay và quyền lực của ta. Nghiệp nghĩa là như vậy. Giống như nướng bánh, nghiệp cho ta nguyên liệu làm bánh. Có người vì nghiệp xấu nên nguyên liệu không được nhiều. Bột thì cũ, chỉ có vài hạt nho khô, bơ thì ôi, còn gì nữa nhỉ? - còn chút ít đường. Chỉ có thế. Người khác do nghiệp tốt nên có đầy đủ nguyên liệu hơn: nào là bột mì lức, nào là đường cát nâu, thôi thì đủ loại hạt cũng như trái cây khô. Tuy nguyên liệu kém cỏi, có người nướng được cái bánh rất khéo léo. Họ trộn bột và đường lại, sau đó đút vào lò -- kết quả là bánh rất thơm ngon. Trong khi đó, tuy người khác có tất cả, nhưng cái bánh họ nướng ăn chưa chắc đã ngon bằng.
Như vậy, kamma cho ta nguyên liệu, nhưng không bắt ta phải sử dụng chúng như thế nào. Nếu khôn khéo, ta sẽ sử dụng những gì sẵn có và ta vẫn có thể nướng được một cái bánh ngon nếu biết cách.
Dĩ nhiên, việc đầu tiên phải làm khi muốn bánh ngon là không mất thì giờ than thở về những gì đang có trong tay. Nhiều lúc, khi mở tủ xem có gì để nấu, các cư sĩ hộ tăng khám phá rằng chùa không có đủ những vật liệu cần thiết. Thế là họ khéo léo thích nghi dùng những gì có sẵn. Ðôi khi bánh nướng ra trông rất lạ, nhưng ăn ngon vô cùng.
Nghiệp, hay kamma, đưa dẫn ta về đâu? Ta phải làm gì với nghiệp của ta? Có phải để ta trở nên giầu sang, đầy quyền lực? Không phải vậy. Tham thiền, học Phật pháp, và đường hướng chúng ta đi là để đến bờ giải thoát. Chúng ta sử dụng những gì chúng ta có là để đi đến giác ngộ. Nhưng giác ngộ nghĩa là gì? Giác ngộ có nghĩa là tâm đã trừ tuyệt sân hận, tham ái và vô minh.
Xưa kia, có một ông thầy người Nga tên là Gurdjief sống trong một cộng đồng bên Pháp. Trong nhóm này, có một người tính tình rất kỳ cục, luôn luôn làm kẻ khác bực bội khó chịu. Họ bèn họp nhau lại, yêu cầu thầy Gurdjief đuổi ông ta đi. Nhưng, thầy Gurdjief không bao giờ đuổi ông ấy đi cả. Mãi sau này, khi thầy Gurdjief qua đời, họ mới biết chính thầy đã trả tiền giữ ông ta ở lại trong khi tất cả mọi người khác phải đóng góp tiền ăn ở mới được sống trong cộng đồng này. Thầy Gurdjief phải trả tiền người kia là để dạy họ một bài học. Ðó là nếu ta chỉ vui khi sống với người ta ưa thích, hạnh phúc đó không đáng giá gì vì tâm ta không bị khuấy động. Như ly nước bùn, khi lắng đọng, nước sẽ trong. Nhưng khi bị khuấy động, bùn từ đáy ly sẽ nổi lên. Ta phải khuấy ly nước lên để biết ly nước đó có gì. Vì thế, thầy Gurdjief phải trả tiền ông kỳ cục nọ để khuấy động mọi người, giúp họ biết họ có gì trong tâm.
Cái thước để đo trình độ tâm linh là hãy quan sát cách ta đối xử người khác, nhất là với người khó tính. Ta có an vui khi bị người khác gây khó hay không? Ta có thể quên đi, không giận hờn khi bị người khác, hay nơi chốn, hoặc chính ta khiến ta khó chịu không? Trước sau gì ta cũng phải quên giận. Nếu không, ta sẽ không bao giờ giác ngộ, và sẽ không bao giờ được an lạc.
Chúng ta hãy tự nhủ rằng: "Ta sẽ không gắt gỏng nữa, không gây gổ nữa, hay không đoạn giao với ai nữa. Khi biết rằng ta không thể làm khác hơn, ta hãy sống an vui với điều ta không thích. Ta hãy chấp nhận mọi khó khăn một cách bình thản thay vì quay lưng chối bỏ để đi tìm khoái lạc!" Quý vị thử nghĩ như thế xem!
Có người cho rằng khi sống không giận hờn, ta trở thành cây cỏ. Nếu nhường nhịn mãi, ta sẽ chỉ ngồi trơ ra đó, không làm được gì. Nhưng thử hỏi: "Sau cơn giận, ta cảm thấy thế nào? Có phải ta cảm thấy khoẻ ra và tràn đầy sức sống?" Thật ra, sau cơn giận, ta cảm thấy mệt vì giận dữ làm hao tổn tâm sức. Ngay khi bực bội ai hoặc về việc gì, ta cảm thấy mất sức ngay. Vì vậy, nếu không muốn buồn chán, mệt mỏi, xin quý vị thử thí nghiệm không bực tức xem sao. Quý vị sẽ cảm thấy mình tỉnh táo, hăng hái. Sau đó, quý vị có thể dùng năng lực đó lo lắng đến người khác và cho bản thân. Tất cả đều nằm trong quyền lực của quý vị. Nếu muốn đi trên con đường giác ngộ, ta phải dứt bỏ sân giận.
Làm cách nào để dứt bỏ sân giận? Trước hết, ta phải thật tâm muốn từ bỏ nó. Không hiểu tại sao mà đa số chúng ta đều không muốn buông bỏ sân giận! "Có một câu chuyện rất thú vị về hai nhà sư rất thân nhau cùng tu nhiều năm tại một ngôi chùa nọ. Họ chết cách nhau vài tháng. Một người được tái sinh trên cõi trời hưởng rất nhiều phúc lạc, trong khi vị kia tái sinh làm con sâu trong một đống phân. Vị trời chợt nhớ đến bạn mình: "Không biết bạn ta bây giờ đang ở đâu?" Ông bèn soi khắp cõi trời, nhưng không thấy bạn mình, soi khắp cõi nhân gian cũng không thấy vết tích. Sau đó, vị trời phải soi đến cõi súc sinh và cuối cùng là cõi sâu bọ. Sau cùng, ông tìm thấy bạn mình tái sinh làm con sâu sống trong đống phân ... "Trời đất!" Vị trời nghĩ: "Ta phải giúp bạn ta. Ta phải giáng xuống đống phân đưa bạn ta lên cõi trời để cùng hưởng phúc với ta."
Thế là ông đi xuống đống phân gọi bạn mình. Con sâu nhỏ bò ra hỏi: "Ai đó?", "Ðệ là bạn đồng môn của huynh đây. Chúng ta xưa kia tu cùng chùa đó. Ðệ sẽ đưa huynh lên cõi trời cùng vui nhé." Con sâu nói: "Thôi, thôi. Huynh đi đi!" "Nhưng đệ là bạn huynh đây mà. Ðệ đang sống trong cảnh trời đó." Rồi ông tả cảnh trời cho con sâu nghe. Con sâu nói: "Thôi, cám ơn huynh nhiều. Ở đống phân này cũng vui lắm. Huynh hãy đi đi." Vị trời nghĩ: "Nếu ta đưa đại bạn ta lên trời, bạn ta sẽ thấy rõ." Thế là vị trời nắm lấy con sâu kéo đi, nhưng càng kéo thì con sâu lại càng ôm chặt lấy đống phân!"

Quý vị hiểu bài học của câu chuyện này chứ? Có bao nhiêu người trong chúng ta mê luyến đống phân? Nếu có ai cố kéo ta ra khỏi đống phân, ta lại càng cố chui vào vì đã quen ở đó rồi. Ta bám chặt vào thói quen cố hữu, vào tham lam, sân hận.
Lần tới, khi nổi giận, quý vị hãy ngưng lại và quan sát trong giây lát quý vị đang cảm thấy thế nào. Quý vị hãy tự nhắc nhở mình: "Lần tới, khi nổi giận, ta hãy cảm nhận cơn giận, thay vì làm như khôn khéo bào chữa và để người khác đau lòng". Quý vị hãy chú tâm xem mình cảm nhận cơn giận ra sao. Ngay khi quý vị nhận ra cơn giận trong tâm, không phải trong trí não, quý vị sẽ không muốn giận nữa vì cơn giận làm quý vị đau khổ.
Chỉ khi nào thức tỉnh, thay vì suy nghĩ, hãy cảm nhận được cơn giận, ta mới hết giận. Ta sẽ buông bỏ cơn giận rất nhanh vì cơn giận nóng bỏng, đốt cháy. Tuy nhiên, chúng ta thường nhìn thế giới này với đầu óc thay vì bằng trái tim. Ta suy nghĩ về cơn giận, nhưng ít khi cảm nhận và thực sự sống trong cơn giận. Hành thiền giúp ta sống bằng tâm. Suy nghĩ và than phiền là nơi tham ái phát khởi.
Khi sống bằng tâm, ta sẽ nhận được ta, bình an với ta và thương yêu ta. Khi sống bằng tâm, ta hiểu rõ tâm tha nhân. Nhờ đó, ta có thể yêu thương kẻ địch, vì khi hiểu tâm họ, ta sẽ thấy họ đáng yêu, đáng quý.
Người ta nổi giận vì bị tổn thương và vì bất an. Khi cảm thấy hạnh phúc, ta sẽ không thể giận được ai. Chỉ khi chán nản, mệt mỏi, bực tức, gặp khó khăn, tóm lại là khi tâm ta mắc bệnh, ta mới có thể giận kẻ khác. Vì thế, khi nào có người giận tôi, tôi cảm thấy thương xót họ, và tôi hướng tâm từ bi đến họ vì biết họ đang đau khổ.
Lần đầu tiên khi đến gặp một vị sư được nhiều người tin rằng đã giác ngộ, tôi tự nhủ: "Ta phải tham thiền trước khi gặp ngài, vì ngài có thể đọc được tư tưởng ta. Ta sẽ xấu hổ đến chết mất." Nhưng các bậc giác ngộ không bao giờ có ác tâm khiến người khác đau lòng. Họ chấp nhận ta và đem lại cho ta sự thoải mái. Biết rằng mình được chấp nhận sẽ cho ta một cảm giác tuyệt diệu. Nhờ cảm giác này, chúng ta sẽ sống rất tự nhiên, thanh thản, không giận hờn. Nhận biết rằng mình được chấp nhận là sự thông hiểu rất lớn. Biết bao đau thương sẽ được vơi bớt! Biết bao tự do ta có thể sống để phục vụ thế giới, và yêu thương nhân loại! Ta sẽ không phí thì giờ tìm cách sửa đổi bản thân để làm vui lòng kẻ khác vì sợ phạm lỗi nữa. Khi bình an với chính bản thân, ta sẽ cùng an vui với tha nhân.

Trích từ: Forest Sangha Newsletter, January 1997/2540, No 39, U.K.
 Ajahn Brahmavamso
Hải Trần chuyển dịch,

http://www-ipg.umds.ac.uk/~crr/newsletter/



Đọc tiếp ...

THƯƠNG THƯƠNG LẮM !

Mẹ vẫn nhớ như in khi  con chừng bốn tuổi, con nói sõi hơn em bây giờ rất nhiều.Nghe mẹ mở   Michael Jackson con bảo , mẹ ơi , sao chú này hát tháy ....thương thương lắm! Mẹ đã  giật mình   trước sự nhạy cảm đặc biệt của con trai .Rồi còn nhớ lần thấy ông  xối mấy gáo nước rửa cái xe máy bẩn  của  bố trong sân .Con  ...la to ,bố ơi bố, sao bố không mang cho cái chú trẻ trẻ chú ấy rửa, ông già rồi còn...bắt ông rửa? ! Chà ! Yêu khủng khiếp con trai cưng! Những kỉ niệm từa tựa vậy ở con rất nhiều, mẹ chẳng kể thêm. 
Tới hôm rồi,cô giáo của con  vừa  có năm ngày du lịch Hà nội.
Cô đăng hình lên fb.Nào chùa ,nào hồ , nào lăng  , nào cả  Hạ Long, phố xá, hàng quán  ăn uống đủ thứ  đủ nơi ...Thấy con trai dừng rất lâu,tần ngần  ở những bức hình  cô giáo chụp người   bán chuối  rong bằng xe thồ, chị   quang gánh kĩu  kịt len lách giữa phố đông....Hình chẳng lạ ,nhưng vẫn ấn tượng quá với con .Con nói con muốn ...muốn mua sạch cả cái mẹt hàng  ( lơ thơ ít  nải chuối, lẫn vài  thứ trái cây  ) ấy giúp họ .Mẹ , lại cái bệnh  thích kể lể bảo,  con không  biết , các chị các  cô ấy  đã phải đạp xe từ ngoại thành  rất xa, sớm tinh mơ, ngó túi họ đeo bên xe đó, là  bữa  cơm trưa đạm bạc lắm  đó con. Phơi người nắng gió mệt nhoài cả ngày  ...mà có  chắc được yên đâu, vớ vẩn còn bị thu hàng khổ sở lắm đó  con.Người ta cấm bán rong từ lâu rồi.Mà bán hết sạch cả mẹt ấy thì được bao nhiêu cả vốn lẫn lời  ? .Và ..con có biết có biết bao nhiêu người mưu sinh vất vả  như vậy,làm sao con mua nổi ???!!!
Hai mẹ con lặng một lúc  lâu đeo đuổi ý nghĩ riêng.Mẹ  chợt  thấy hình như mẹ hơi  ...dở? Mẹ  đừng  nói gì thêm mới phải, cứ gieo buồn vào con  tim đa cảm của con, có ích chi ?! 
Rồi mẹ bỗng  nghĩ, có lẽ mẹ đã yêu con và... anh con hết mực vì cái nết ấy.Có lẽ vậy !


Đọc tiếp ...

Giới thiệu sách NGUYỄN HỮU KIỆT dịch NGUYỄN MINH TIẾN hiệu đính TỦ SÁCH HUYỀN MÔN NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI Theo tài liệu Many Mansions (1950) của Gina Cerminara

Giới thiệu sách


NGUYỄN HỮU KIỆT dịch


NGUYỄN MINH TIẾN hiệu đính




TSÁCH HUYN MÔN


NHỮNG BÍ ẨN
CUỘC ĐỜI

Theo tài liệu Many Mansions (1950)


của Gina Cerminara

LỜI GIỚI THIỆU


Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩa và nguyên nhân của sự đau khổ diễn ra từ khi chào đời cho đến lúc xuống mồ. Con người vẫn luôn hy vọng có một ngày nào đó sẽ tìm ra được những câu giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn và khó khăn trong bài toán về cuộc đời. Tuy nhiên, cho đến nay thì việc dựa vào những thành tựu của khoa học để làm được điều này vẫn còn là điều quá xa xôi, trong khi nhiều hiện tượng mà khoa học hoàn toàn không giải thích được lại có vẻ như đang mang đến cho con người những đáp án mà họ mong đợi.

Ông Edgar Cayce là một trong số những hiện tượng như thế. Không ai có thể giải thích được vì sao ông lại có được những giác quan thần bí và có thể sử dụng những khả năng đó vào nhiều mục đích vô cùng thực tế. Thông qua sự nhận biết và trình bày của ông, những định luật về luân hồi và nhân quả, mà từ trước đến nay vẫn bị nhiều người xem như những điều mơ hồ khó hiểu và không thể chứng minh cụ thể, thì nay có vẻ như đã được giải thích một cách rất rõ ràng.

Tường thuật những câu chuyện về ông Edgar Cayce trong tập sách này, chúng tôi không có ý khẳng định một điều gì, mà chỉ hy vọng sẽ mang đến cho độc giả những giây phút giải trí thư giãn và đồng thời cũng có đôi điều suy gẫm để làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN

CHƯƠNG 1
MỘT TRIỂN VỌNG ĐÁNG MỪNG


Một nhà hiền triết đã mô tả về ý nghĩa của một đời người chỉ trong một câu ngắn gọn: “Con người sinh ra chỉ để đau khổ và cuối cùng chết đi.”

Nói về sự đau khổ của cuộc đời, ngày nay hẳn không còn ai phải hoài nghi hay tranh cãi. Người ta thường chỉ không đồng ý với nhau trong việc nhận định về những đau khổ đó và nên đối phó với chúng như thế nào mà thôi.

Cách đây hơn 25 thế kỷ, người đầu tiên đã nhận thức và mô tả hết sức cụ thể về những đau khổ của đời người là một người Ấn Độ. Ngài đã chỉ rõ mọi nguyên nhân cội nguồn của đau khổ và vạch ra con đường thoát khổ, được hàng triệu triệu người trên khắp thế giới noi theo từ đó đến nay và mỗi người đều đạt được những sự lợi ích tinh thần nhất định, từ những phút giây thanh thản trong đời sống thường nhật cho đến những trạng thái giải thoát toàn diện thoát khỏi mọi khổ đau.

Lịch sử ghi nhận sự kiện đản sinh của bậc vĩ nhân đó với tên gọi Thái Tử Sĩ Đạt Ta, và về sau được tôn xưng là Đức Phật, với ý nghĩa là bậc Toàn Giác.

Phụ vương của Sĩ Đạt Ta là một vị vua có thế lực lớn ở miền Bắc Ấn Độ thời đó. Người quyết định truyền ngôi cho thái tử nên đã giữ chặt thái tử trong cung, không cho thái tử nhìn thấy những cảnh lầm than, đau khổ của người đời.

Thái Tử sống từ nhỏ trong cung cấm. Đến lúc trưởng thành, vua cha cưới cho thái tử một vị công chúa nhan sắc tuyệt trần. Từ nhỏ đến lớn, thái tử chưa hề bước chân ra khỏi bốn vách thành bao bọc quanh hoàng cung. Khi thái tử có được một hoàng nam, người thấy nhàm chán cảnh cung điện và muốn biết có những gì ở cuộc sống bên ngoài cung điện. Người mới xin phép vua cha xuất thành du ngoạn. Lần đầu tiên thái tử được nhìn thấy cảnh thành phố tấp nập, dân cư đông đảo và đời sống thực tế bên ngoài cung điện.

Sau khi du ngoạn bên ngoài bốn cửa thành, thái tử nhìn thấy những cảnh tượng làm cho người chú ý. Đó là cảnh một người già, một người bệnh tật và một xác chết. Thái tử lần đầu tiên thấy được những cảnh này, vô cùng xúc động, bèn hỏi tên đánh xe đi theo ngài: “Tại sao lại có những cảnh đau khổ như thế?”

Khi được biết rằng đó là những điều vẫn xảy ra với tất cả mọi người, không ai tránh khỏi, Thái tử vô cùng buồn bực, đến nỗi Ngài không còn ham thích gì cuộc sống xa hoa.

Khi trở về cung, ngài bắt đầu nuôi ý định xuất ly, từ bỏ tất cả mọi sản nghiệp, gia đình vợ con để xuất gia tầm đạo, tìm một phương cách để cứu vớt nhân loại và chúng sinh thoát khỏi sự lầm than đau khổ.

Ý nguyện của ngài không được sự chuẩn thuận của vua cha. Vì thế, ngài đã phải đang đêm vượt thành để ra đi tầm đạo. Sau nhiều năm khổ công tìm kiếm và tu tập, tham thiền quán tưởng, ngài đạt được trạng thái giác ngộ, trở thành một bậc toàn trí toàn giác, xứng đáng với danh hiệu Phật-đà, nghĩa là Bậc tỉnh giác. Sau đó ngài mới truyền dạy đạo giải thoát cho thế gian, chỉ cho tất cả mọi người thấy được con đường thoát khổ.

Chúng ta là những người trần gian phàm tục, không ai có thể làm giống như đức Phật Thích Ca, nghĩa là nhất thời dứt bỏ tất cả sự giàu sang, quyền thế, danh vọng, tình yêu và hạnh phúc gia đình để theo đuổi một mục đích quá cao xa như việc đi tìm chân lý và tìm hiểu ý nghĩa chân thật nhất của cuộc đời! Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta đều phải trải qua những hình thức khổ đau nhất định trong cuộc đời mình và hẳn đã có lúc phải tự hỏi:

- Tại sao con người phải chịu đau khổ? Và ta có thể làm gì để thoát khổ?

Cách giải thích về những “tội lỗi bẩm sinh” mà con người phải nhận lấy ngay từ lúc sinh ra dường như không thuyết phục đối với nhiều người. Họ thấy không có lý do gì để người ta phải chịu đựng khổ đau chỉ vì những điều mà họ hoàn toàn không tự mình thực hiện! Nhưng nếu cho rằng có những điều chính ta đã thực hiện trong quá khứ để dẫn đến sự khổ hiện nay nhưng ta hoàn toàn không nhớ biết chỉ vì si mê thì nhiều người cũng không tin nhận được, vì họ cho rằng không có sự chứng minh cụ thể nào cả!

Những nhà văn có óc không tưởng đã phác họa về một thời kỳ trong tương lai mà bốn nỗi khổ của đức Phật nêu ra sẽ có hai điều không còn nữa, đó là bệnh tật và già yếu. Nhưng mặc dầu khoa học hiện đại đã có rất nhiều những phát minh đột phá, người ta vẫn chưa bao giờ chạm tới ngưỡng cửa của sự chấm dứt hoàn toàn bệnh tật hoặc làm cho con người không còn chịu tiến trình lão hóa. Cứ mỗi khi tìm được phương pháp điều trị cho một căn bệnh nan y nào đó, thì dường như là ngay lập tức sẽ thấy xuất hiện một căn bệnh mới, còn bất trị hơn cả căn bệnh trước đó! Và như thế lúc nào con người cũng phải luôn đứng trước những thách thức không thể vượt qua của bệnh tật. Còn nói đến tiến trình già yếu thì càng không thấy có triển vọng gì tốt đẹp! May mắn lắm thì người ta cũng chỉ hy vọng tìm ra một phương thuốc nào đó làm cho con người có thể trẻ hóa được chừng năm mười năm tuổi cũng đã là phi thường lắm rồi, đừng nói chi đến việc “cải lão hoàn đồng”!

Nhưng cho dù có vượt qua được sự bệnh tật và già yếu, con người hầu như cũng không thể tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề mà con người vẫn xem là kẻ thù lớn nhất: Đó là sự chết! Ranh giới giữa sống và chết bao giờ cũng hết sức mong manh, và con người chưa hiểu biết được bao nhiêu về vấn đề này nên có thể nói là hoàn toàn bất lực trong việc tác động vào nó. Cho dù người ta có thể làm ra những cỗ máy khổng lồ đủ sức san bằng cả một hòn núi nhỏ, thì họ cũng không thấy có chút hy vọng gì có thể làm cho một con chuột nhắt bé tí đã chết có thể sống lại dù chỉ trong chốc lát!

Trong khi chờ đợi một cách vô vọng những tiến bộ của con người theo hướng này, và trong khi sự cải tạo thế giới trên một bình diện hợp lý hơn vẫn còn chưa đem đến cho nhân loại sức khỏe, sự anh ổn và hạnh phúc, thì chúng ta vẫn luôn phải đương đầu với muôn ngàn sự bấp bênh trong đời sống, những mối nguy cơ, tai họa và đau khổ luôn rập rình đe dọa sự hạnh phúc và bình an trong tâm hồn chúng ta! Những tai họa thiên nhiên như hỏa hoạn, bão lụt, dịch bệnh, động đất... kèm theo với những cuộc chiến tranh do chính con người gây ra luôn sẵn sàng cướp đi đời sống an ổn của bất cứ ai trong chúng ta. Đó chỉ là mới kể qua một vài sự tác động xấu từ bên ngoài, còn nói về những yếu tố bên trong, tức là phần nội tâm, thì con người lại luôn sẵn có vô số những sự yếu đuối, bất toàn, như lòng ích kỷ, ganh ghét, tham lam, thù hận, si mê .v..v... đều là những nguồn gốc sinh ra sự đau khổ cho chính bản thân mỗi người và cho những người chung quanh.

Trong những giây phút vui tươi ít ỏi của cuộc đời, khi chúng ta cảm thấy trong lòng vui vẻ hân hoan vì tiếng nhạc réo rắt du dương, hay khi nhìn thấy cảnh sắc muôn màu của lúc bình minh, chúng ta thường cảm thấy rằng trong vũ trụ tự nhiên hẳn luôn sẵn có sự an vui và ẩn giấu một ý nghĩa sâu xa thâm trầm nào đó, khác hơn là những nỗi khổ đau mà ta phải thường xuyên gánh chịu. Tuy nhiên, khi chúng ta quay trở về cõi đời thực tế với những sự va chạm phũ phàng, những thất vọng não nề cay đắng, thì chúng ta không khỏi nêu ra nhiều câu hỏi như là:

- Ý nghĩa và mục đích của cuộc đời này là gì?

- Ta là ai?

- Tại sao ta sinh ra ở đây?

- Rồi ta sẽ đi về đâu?

- Tại sao ta phải chịu đau khổ?

- Có những mối quan hệ gì giữa ta và những người khác quanh ta?

- Giữa con người với cái sức mạnh vô hình huyền bí trong cõi thiên nhiên bao phủ cuộc đời chúng ta có mối liên hệ như thế nào chăng?

Những câu hỏi căn bản đó, nhân loại đã từng nêu ra từ những thời đại quá khứ xa xăm. Nhưng ngày nào người ta vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp thì tất cả những giải pháp tạm thời để làm dịu bớt sự đau khổ, dầu là những phương tiện vật chất hay tinh thần, đều chỉ có ý nghĩa vô cùng hạn chế và không thể giúp cho ta có được hạnh phúc thực sự. Ngày nào mà vấn đề đau khổ của nhân loại về cơ bản vẫn chưa được giải quyết, thì có thể nói là những nỗ lực của con vẫn chưa giải quyết được gì cả, vì tất cả mọi thành tựu vật chất hay tinh thần xét cho cùng cũng không có ý nghĩa gì khi mà người ta phải luôn oằn vai dưới gánh nặng khổ đau. Ngày nào mà trên thế gian còn có một sinh vật nhỏ mọn tầm thường nhất đang quằn quại trong đau khổ mà người ta chưa giải thích được nguyên nhân, thì xem như người ta chưa thực sự giải thích được điều gì cả, và quan niệm triết lý của nhân loại về cuộc đời vẫn còn là thiếu sót, bất toàn.

Từ những thời đại cổ xưa nhất, loài người đã từng nêu ra những câu hỏi trên. Và càng suy ngẫm thì họ càng cảm thấy rằng những sự tranh đấu vất vả và đau khổ của con người không hẳn là vô ích và vô nghĩa như người ta có thể lầm tưởng. Bởi vì, trong khi những ý nghĩa vật chất nhìn thấy được là hoàn toàn không có giá trị chân thật, thì sự đào luyện và tiến hóa về tinh thần nhờ trải qua những kinh nghiệm khổ đau vẫn luôn là một điều có thật. Từ đó, người ta cảm thấy nhất định phải một sự liên quan giữa con người với thế giới tâm linh hay phần tinh thần phi vật thể. Chính từ những cảm nhận mơ hồ đầu tiên này mà người ta bắt đầu tin vào sự hiện diện vô hình của những đấng thần minh trong những khu rừng thẳm hoặc trên đồi cao, nơi gốc đa đầu làng hoặc giữa đồng hoang vắng vẻ... Cũng từ đó, người ta tin rằng mỗi sinh vật, từ con người cho đến loài cầm thú, đều có một linh hồn, và rằng linh hồn đó tuy phải chịu những đau khổ cùng với thể xác, nhưng vẫn sẽ tồn tại sau khi chết trong một hình thức phi vật chất và tiếp tục có một đời sống riêng của nó. Mặc dù những niềm tin như thế hầu hết đều là vô căn cứ, nhưng nó lại thực sự xuất phát từ những cảm nhận rất thật của con người trong suốt quá trình chiêm nghiệm về đời sống. Vì thế, những niềm tin này hầu như đã đồng thời xuất hiện ở khắp nơi trên trái đất, bất chấp mọi sự khác biệt về chủng tộc, địa lý...

Khi sự suy nghiệm của con người về vấn đề này đã trải qua được những quãng thời gian rất dài thì những lý thuyết khác nhau dần dần được phát sinh. Hoặc có người cho rằng ngoài cõi trần gian đau khổ này mà loài người đang sống trong sự hỗn tạp pha lẫn cả điều lành và điều dữ, điều thiện và điều ác, hẳn phải còn có một cảnh giới vô hình nào đó để là nơi thưởng phạt công minh đối với những hành động thiện ác của con người ở thế gian. Và xuất phát từ niềm tin đó mà người ta đã tin rằng có những cảnh thiên đàng hay địa ngục. Tùy theo sự tưởng tượng, hình dung khác nhau ở từng nơi mà người ta dựng nên những đấng cầm cân nảy mực khác nhau, hoặc miêu tả những cảnh thiên đàng và địa ngục khác nhau, nhưng tựu trung vẫn giống nhau ở điểm là khuyến thiện trừ ác và sự công bằng tuyệt đối của sự phán xét vô hình đó.

Những điều tin tưởng và giải thích như trên đã từng được nêu ra rất nhiều. Có những cách giải thích hãy còn giản dị thô sơ, chất phác, nhưng cũng có những cách giải thích tinh tế, sâu sắc hơn, và cũng có những cách giải thích được mọi người cho là hợp lý, thuyết phục. Và chính nhờ sự tin tưởng vào những giải thích được chấp nhận đó mà con người vẫn có thể tiếp tục sống và đương đầu với những nỗi khó khăn, đau khổ giữa cuộc đời, vì sự thật là nếu không có những niềm tin đó thì cho dù con người có can đảm đến đâu cũng không thể nào vượt qua được những cơn khủng hoảng. Có người tin tưởng ở Đức Mahomet, có người tin tưởng ở Đức Phật, hoặc Chúa Jesus, hay Đức Krishna, hoặc một hình tượng tôn giáo nào khác nữa...

Có nhiều người tin rằng đời người có thể giải thích bằng một lý do duy nhất, đó là ý nghĩa của sự sống. Một số người khác không cần bận tâm tìm biết lý do gì cả, mà chỉ tận hưởng sự vui sướng, khoái lạc trong hiện tại. Đối với những người sinh trưởng trong nền giáo dục và tín ngưỡng đạo Gia Tô, thì sự giải thích về đời người và những sự đau khổ của cuộc đời thường là như thế này:

- Con người có một linh hồn và linh hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là một thử thách đưa đến cho chúng ta, thiên đàng hay địa ngục là những điều thưởng phạt tùy theo cách hành động và cư xử của chúng ta trên thế gian.

Những người chấp nhận sự giải thích đó không hề nói rằng họ có đủ bằng chứng; vì đó chỉ là sự giải thích mà họ được hấp thụ từ cha mẹ và từ các giáo sĩ; và chính những vị này cũng đã hấp thụ từ những bậc phụ huynh và các giáo sĩ trong thế hệ của họ, rồi cứ như thế đi ngược dòng thời gian cho đến khi người ta tìm thấy nguyên ủy mọi sự nằm trong một quyển sách gọi là Kinh Thánh (Bible), và một người đã thiết lập, củng cố niềm tin ấy tên là Jesus.

Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng bộ sách này thật là hay tuyệt, và Đức Jesus, cho dù là một con người hay thực sự là con của Chúa Trời, vẫn phải xem là một nhân vật phi thường. Tuy nhiên, kể từ thời kỳ Phục Hưng (Renaissance) cho đến nay, người Tây phương ngày càng trở nên hoài nghi đối với những tín điều dựa trên niềm tin không được xác tín, dẫu cho đó là tin vào một quyển sách hay một con người. Bất cứ tín điều nào không thể chứng minh được bằng các phương tiện khoa học đều gây ra một sự hoài nghi mỗi lúc một tăng thêm.

Nhà thiên văn học Ptolemy (Ptolémée)1 nói rằng mặt trời xoay quanh trái đất; và đó là điều mà Hội Thánh Gia Tô đã chấp nhận và truyền dạy. Tuy nhiên, nhà Thiên văn Copernic2 đã phát minh ra những khí cụ thiên văn học để chứng minh điều ngược lại, rằng chính trái đất xoay chung quanh mặt trời!

Triết gia Aristote nói rằng nếu người ta làm rơi cùng lúc hai vật có trọng lượng khác nhau từ trên cao, vật nặng hơn sẽ rơi xuống đất trước, và Hội Thánh đã hoàn toàn chấp nhận nền triết học cùng sự phát minh khoa học của Aristote. Tuy thế, với một cuộc thí nghiệm giản dị từ trên đài nghiêng ở thành phố Pise, Galileo3 đã chứng minh rằng hai vật có trọng lượng khác nhau vẫn có thể rơi xuống đất cùng lúc nếu chúng có thể tích khác biệt tương ứng.

Trong Kinh Thánh có nhiều đoạn cho rằng trái đất vốn là một mặt phẳng rộng; tuy nhiên Christophe Colomb Magellan cùng nhiều nhà thám hiểm khác nữa của thế kỷ XV đã làm đảo ngược giả thuyết trên đây bằng những chuyến du hành trên mặt biển, khởi hành từ một điểm và đi thẳng theo hướng đông nhưng cuối cùng lại đến được điểm khởi đầu, chứng tỏ rằng họ đã đi theo một đường tròn.

Những sự chứng minh trên đây cùng nhiều chứng minh khác nữa đã dần dần chứng tỏ rằng những giả thuyết dựa trên niềm tin vô căn cứ từ thời xưa không chắc gì là đúng. Do đó đã nảy sinh quan niệm khoa học và óc hoài nghi phán đoán của người thời nay.

Tuy nhiên, có một thực tế là trong sự tranh đấu để sống còn con người không thể tránh khỏi sự đau khổ. Sự đau khổ này, dường như người ta không tìm ra lý do nào để giải thích ngoài việc phải thừa nhận là nó không có mục đích gì cả! Lẽ nào người ta lại không thể có một cuộc sống không phải chịu đau khổ? Và những gì ta biết về sự chết cho đến nay vẫn chỉ là “một sự tan rã của những phân tử hóa học vật chất”, ngoài ra ta không còn biết gì hơn nữa.

Như vậy, với khuynh hướng khoa học, người ta đã thay thế niềm tin vào Kinh Thánh hay các vị giáo chủ bằng niềm tin vào năm giác quan và các thiết bị khoa học!

Với những ống kính hiển vi, viễn vọng kính, quang tuyến X, máy radar và những phát minh tối tân khác, khoa học đã nới rộng tầm hoạt động của năm giác quan đến mức vượt xa trước đây, nhưng người ta vẫn dựa vào sự nhận xét bằng năm giác quan, tức thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác và xúc giác như là nền tảng của mọi lý luận khoa học.

Tuy nhiên, trải qua vài chục năm gần đây, người ta đã trở nên phức tạp hơn và hoài nghi hơn đối với những điều họ hiểu biết hoặc tưởng rằng mình đã hiểu biết. Những khí cụ khoa học mà người ta phát minh ra đã chỉ cho họ thấy một cách mỉa mai rằng những giác quan của con người thật vô cùng thiếu sót, bất toàn và không thể giúp chúng ta hiểu biết vũ trụ một cách thật sự đầy đủ, chính xác. Những luồng sóng Hertz,4 chất phóng quang, nguyên tử lực... đó là chỉ mới kể có một vài hiện tượng khoa học của thời buổi hiện đại, đã chứng minh một cách rõ ràng rằng chung quanh chúng ta có những luồng âm ba rung động và những mãnh lực vô hình; và những phân tử nhỏ bé nhất của vật chất đều là những kho chứa đựng năng lực, hàm súc tiềm tàng một sức mạnh kinh khủng mà con người trước đây không thể tưởng tượng nổi.

Chúng ta biết rằng những giác quan như tai, mắt... mà chúng ta dùng để tiếp xúc với ngoại giới, cũng ví như những cửa sổ nhỏ hẹp của căn nhà bé nhỏ là xác thân của chúng ta. Sự nhạy cảm của con mắt chúng ta đối với ánh sáng giúp chúng ta tiếp nhận chỉ có một phần nhỏ những luồng âm ba rung động của ánh sáng. Sự thụ cảm của lỗ tai ta đối với âm thanh chỉ giúp ta tiếp nhận một biên độ vô cùng nhỏ hẹp trong biển âm thanh rộng lớn của vũ trụ. Nhiều loại thú cầm, chim muông, côn trùng, sâu bọ có những thị giác, thính giác và khứu giác khác hẳn loài người; bởi đó vũ trụ của chúng bao hàm nhiều sự vật mà chúng ta từ lâu không nhận biết hoặc không thể nhận xét rõ. Thật đáng ngạc nhiên khi con người vốn tự hào về trí thông minh đứng đầu trong muôn loài nhưng lại thua kém một số loài cầm thú, chim muông và sâu bọ về năng lực của giác quan để biết về vũ trụ bên ngoài. Hơn nữa, vì phải phụ thuộc vào những công cụ, phương tiện khoa học mà chính trí óc siêu việt thông minh của họ đã phát minh, nên con người không thể tự mình nhận biết và quan sát mọi sự vật trong vũ trụ mênh mông rộng lớn.

Hãy tưởng tượng rằng chúng ta có thể nới rộng tầm hoạt động và nhận biết của giác quan đến mức nhạy cảm hơn đối với ánh sáng và âm thanh, dẫu rằng chỉ hơn mức bình thường một phần nào thôi. Phải chăng khi ấy ta sẽ nhận biết được nhiều sự vật mà trước kia ta không hề nghe, không hề thấy?

Hoặc nếu có một người nào đó bẩm sinh đã có được những giác quan phi thường, với một tầm nhận biết rộng lớn hơn, phải chăng điều tất nhiên là người này sẽ có thể nghe thấy, nhận biết những sự vật mà chúng ta không thấy, không nghe? Với một mức độ khác biệt nào đó, phải chăng người ấy có thể nghe, thấy và nhận biết vượt qua cả những khoảng không gian xa xôi, tương tự như máy vô tuyến truyền thanh hoặc truyền hình?

Đứng trước thế giới mênh mông vô tận với biết bao điều còn bí ẩn mà những khí cụ khoa học tối tân của thế kỷ hai mươi đã hé mở cho chúng ta nhận biết phần nào, thì người ta buộc phải nhìn nhận khả năng xảy ra những điều nói trên. Và nếu nhìn ngược dòng lịch sử loài người, chúng ta sẽ thấy đã từng có nhiều trường hợp đặc biệt được ghi chép về những khả năng nhận biết phi thường của một số người. Một trong số những người đó là ông Swedenborg,5 nhà bác học trứ danh của thế kỷ 18. Ông này có được một năng lực nhận biết rất phi thường. Người ta đều biết rõ một chuyện về năng lực phi thường của ông, vì chuyện này được rất nhiều người chứng kiến, trong số đó có cả nhà triết học Emmanuel Kant.

Một buổi chiều vào khoảng sáu giờ, ông Swedenborg đang ngồi dùng cơm với vài người bạn ở thành phố Gothenburg, bỗng nhiên ông giật mình và nói rằng một cơn hỏa hoạn lớn đang xảy ra ở Stockholm là chỗ ông ở, cách đó độ năm trăm cây số. Sau đó một lát, ông tuyên bố rằng ngọn lửa đã thiêu hủy ngôi nhà của một người láng giềng và hăm dọa cháy lan đến ngôi nhà của ông. Đến tám giờ, cũng chiều hôm đó, ông cho biết, với một giọng nói đã trấn tĩnh, rằng ngọn lửa đã được dập tắt ở khoảng cách nhà ông độ vài ba gian nhà khác.

Hai ngày sau, những lời của ông Swedenborg đã được xác nhận bằng những bài tường thuật về cuộc hỏa hoạn bộc phát đúng vào lúc ông giật mình và có cảm giác đầu tiên về cơn tai biến này!

Đây không phải là trường hợp duy nhất, tiểu sử của nhiều nhân vật tên tuổi cũng ghi chép hàng trăm trường hợp tương tự, trong số đó có những người nổi tiếng như Mark Twain, Abraham Lincoln, St. Saens.v.v... Trong vài trường hợp, chính những người thân quyến của họ đã có lúc nhìn thấy thình lình những hình ảnh lạ lùng về những sự việc xảy ra ở cách rất xa, hoặc sẽ xảy ra trong nhiều tháng hay nhiều năm về sau, với đầy đủ chi tiết.

Nói về trường hợp ông Swedenborg thì năng khiếu thần nhãn của ông từ đó trở nên một thứ giác quan mạnh mẽ phi thường và liên tục. Nhưng trong phần nhiều những trường hợp khác, năng khiếu đó dường như chỉ biểu lộ trong một lúc nhất định khi đương sự tạm thời rơi vào một trạng thái xuất thần.

Người Tây phương thường có khuynh hướng đón nhận những sự việc kể trên với một thái độ hoài nghi và thậm chí với ít nhiều cử chỉ khinh thường. Tuy nhiên, nay đã đến lúc mà người ta không thể nhìn vào những hiện tượng đó một cách khinh rẻ như thế được nữa. Đối với những người có một tinh thần cởi mở, sẵn sàng tìm hiểu những hiện tượng lạ lùng, đối với những người thông hiểu các trào lưu khoa học và những nhu cầu của thế hệ, thì bất cứ sự việc gì có liên hệ đến những khả năng lạ lùng huyền bí của con người đều có tánh cách lý thú và có một tầm quan trọng nhất định.

Trong số những nhà thông thái có tầm kiến thức rộng rãi và thừa nhận rằng những hiện tượng thần bí, siêu nhiên đáng được nghiên cứu bằng phương pháp khoa học, cũng như đã ra công sưu tầm về những hiện tượng đó, có bác sĩ J. B. Rhine,6 giáo sư trường Đại Học Duke. Từ năm 1930, tiến sĩ Rhine và những người cộng sự đã nghiên cứu sâu về những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu thần nhãn trong con người.

Bằng những cuộc thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ và tuân theo một phương pháp khoa học đặc biệt, tiến sĩ Rhine đã khám phá được một điều là trong phòng thí nghiệm, có nhiều người đã biểu lộ những khả năng cảm xúc bằng giác quan một cách phi thường. Người ta có thể tìm thấy những chi tiết về phương pháp thí nghiệm và những kết quả sưu tầm của tiến sĩ Rhine trong quyển sách nhan đề “The Reach of the Mind”  (Tầm hoạt động của trí não” do chính ông xuất bản năm 1947 tại Hoa Kỳ.

Những nhà sưu tầm khác như Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và Tichner ở Đức, với những phương pháp thí nghiệm tương tự, cũng đã đi đến những kết luận giống như của tiến sĩ J. B. Rhine.

Những bằng chứng khoa học hiển nhiên đã giải tỏa mọi điều nghi ngờ về tính chất có thật của những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu thần nhãn của con người. Tuy thế, cho đến nay khoa học chỉ mới chứng minh được rằng hiện tượng thần nhãn là một điều có thật, còn việc nó hoạt động ra sao và phát sinh từ những yếu tố nào thì người ta hoàn toàn không biết gì cả. Vì thế, người ta vẫn chưa thể vận dụng được năng khiếu đó trên địa hạt thực tế.

Thử tưởng tượng, nếu con người có thể tạo ra được cái năng khiếu phi thường đó, thì nó sẽ giúp ta nhìn thấy được những gì xảy ra trong không gian mà không cần sử dụng đến cặp mắt thường. Khi đó, con người sẽ có được một phương thức mới cực kỳ hiệu quả để thu hoạch những điều hiểu biết về vũ trụ.

Trải qua nhiều thế kỷ, con người đã làm được nhiều công trình lớn lao. Sự khôn ngoan khéo léo đã giúp ta chinh phục một phần nào không gian và tác động rất nhiều vào thế giới vật chất. Nhưng dù có được sự khôn ngoan khéo léo đó, xét cho cùng thì chúng ta vẫn là một sinh vật yếu đuối và bất toàn. Mặc dầu có được những thành công nhất định trên địa hạt vật chất, con người vẫn còn phải bất lực trên rất nhiều lãnh vực. Mặc dầu đã thu hoạch được những kết quả nhất định trên các lãnh vực nghệ thuật, văn hóa và khoa học, con người vẫn chưa tìm ra ý nghĩa và mục đích của sự đau khổ mà mỗi người đều phải chịu đựng từ khi sinh ra cho đến lúc từ giã cõi đời.

Trong thời gian qua, con người đã tìm ra những bí mật về năng lượng nguyên tử, điều đó là một bước đột phá trong việc kiểm soát thế giới vật chất. Nhưng có lẽ phải nhờ vào chính những sự khám phá gần đây về khả năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng của con người và những mối liên quan lạ kỳ giữa ý thức và tiềm thức, con người mới có thể tiến sâu hơn nữa vào lãnh vực nội tâm của chính mình.

Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm tìm tòi, có lẽ sau cùng người ta sẽ tìm ra những câu giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn quan trọng của đời người, chẳng hạn như những lý do vì sao con người sinh ra ở thế gian và mục đích cùng ý nghĩa của sự đau khổ mà con người phải chịu đựng là gì.
Đọc tiếp ...

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

21 món quà khiến bé yêu không bao giờ quên (st)

Có những món quà ảnh hưởng đến cả cuộc đời con bạn, khiến con bạn sẽ nhớ mãi.


Bạn luôn thương yêu những đứa trẻ của mình và luôn muốn dành cho chúng một tuổi thơ tuyệt vời nhất, những tháng ngày sống hạnh phúc và vui vẻ. Bạn có bao giờ nghĩ về những món quà có ý nghĩa với con mãi mãi, những món quà ảnh hưởng thực sự và làm cho cuộc sống của con thay đổi?

Có những món quà ảnh hưởng đến cả cuộc đời con bạn, khiến con không bao giờ quên. Dưới đây là tất cả những món quà đó, những thứ bạn không thể mua ở bất cứ cửa hàng nào:

1. Thời gian

Thời gian là một trong những món quà mà bạn không bao giờ có thể quay lại hay lấy lại. Vì vậy, hãy suy nghĩ về việc dành thời gian cho con.

2. Một ngôi nhà luôn chào đón

Khi bạn biết rằng bạn luôn luôn có thể trở về nhà với những giây phút ngọt ngào và an lành nhất trong cuộc sống. Hãy để ngôi nhà là nơi tiếp thêm sinh lực cho những đứa trẻ của bạn.

3. Sự khuyến khích

Lời nói có sức mạnh. Lời nói có thể tạo ra hoặc phá hủy điều gì đó. Những từ đơn giản mà bạn chọn để nói chuyện với con hàng ngày có thể khuyến khích và đem đến những suy nghĩ tích cực cho trẻ. Hoặc lời nói của bạn có thể thổi bùng lên sự tuyệt vọng. Vì vậy, hãy lựa chọn những lời nói thật cẩn thận.

4.Tìm kiếm sự đẹp đẽ

Hãy giúp con bạn tìm thấy vẻ đẹp trong tất cả mọi thứ chúng nhìn thấy và trong tất cả mọi người chúng gặp.

5. Sự lạc quan

Những người bi quan không thể làm thay đổi thế giới. Chỉ có những người lạc quan mới có thể làm được điều này.

6. Sự khẳng định

Đôi khi một câu khẳng định có thể thay đổi toàn bộ cuộc sống của trẻ. Vì vậy, hãy chắc chắn rằng bạn biết bạn đánh giá cao con. Một trong những món quà lớn nhất bạn có thể tặng cho con đó là sự đánh giá cao những gì con có.

7. Sự thử thách

Hãy khuyến khích con mơ những giấc mơ lớn. Có thể con sẽ làm được nhiều thứ hơn chúng nghĩ và thậm chí… nhiều hơn những gì bạn nghĩ. Những lời nói khuyến khích là món quà tuyệt vời mà mọi đứa trẻ đều cần.

gift4-9725-1386240756.jpg
Không bao giờ là quá muộn để thể hiện tình yêu với những đứa trẻ của bạn bằng những cái ôm và lời nói yêu thương.
8. Sự tò mò

"Đừng hỏi nhiều" - là câu cửa miệng của nhiều cha mẹ. Thay vào đó hãy dạy con đặt câu hỏi về ai, cái gì, ở đâu, như thế nào, tại sao, và tại sao không.

9. Kỷ luật

Trẻ em cần phải học tất cả mọi thứ từ những điều nhỏ nhất đến những hành vi thích hợp, làm thế nào để hài hòa cùng với người khác, làm thế nào để có được kết quả, và làm thế nào để đạt được ước mơ của mình. Không nên tránh các hình thức xử phạt, tuy nhiên hãy kỷ luật một cách nhất quán và tích cực.

10. Hy vọng

Hy vọng là biết và tin rằng mọi thứ sẽ được cải thiện và trở lên tốt hơn. Hy vọng có thể tạo ra sức mạnh, sự chịu đựng và khả năng giải quyết. Và trong những lúc khó khăn của cuộc sống, hy vọng sẽ thúc đẩy chúng ta tiến về phía trước.

11. Nụ hôn và những cái ôm

Không bao giờ là quá muộn để thể hiện tình yêu với những đứa trẻ của bạn bằng những cái ôm và lời nói yêu thương.

12. Trí tưởng tượng

Nếu chúng ta có thể học được điều gì trong suốt 20 năm qua thì đó là cuộc sống đang thay đổi nhanh hơn mỗi ngày. Thế giới ngày mai chẳng có gì giống với thế giới ngày hôm nay cả. Những người có trí tưởng là những người không chỉ sống mà còn là những người sáng tạo ra cuộc sống.

13. Sống có chủ ý

Hãy tin tưởng vào cách sống có chủ ý và nuôi dạy con có chủ ý. Hãy sống chậm lại, cân nhắc bạn là ai, bạn sẽ đi đến đâu và đến đó như thế nào. Và hãy làm tương tự như thế với những đứa con của bạn. Những món quà đến từ tình yêu sẽ làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc sống của trẻ.

14. Đam mê học tập

Đam mê học tập khác với chỉ học để đạt điểm cao hoặc chạy chọt giáo viên. Đam mê học tập xuất phát từ chính trong gia đình. Đó là đọc sách, đặt câu hỏi, phân tích và thể hiện.

15. Những bữa ăn cùng nhau

Bữa ăn là cơ hội tuyệt vời cho gia đình. Một gia đình mà không ăn cùng nhau sẽ không thể phát triển cùng nhau.

16. Cơ hội

Trẻ con cần những cơ hội để trải nghiệm những điều mới vì thế chúng có thể khám phá ra những gì chúng thích và những gì chúng có năng khiếu.

gift5-2687-1386240756.jpg
Món quà lớn nhất không được gói trong giấy bọc mà nó được bao bọc bởi tình yêu thương.
17. Niềm tự hào

Hãy luôn chúc mừng những điều nhỏ bé trong cuộc sống. Những điều nhỏ bé ấy sẽ có thể trở thành những thành quả lớn hơn.

18. Cơ hội mắc lỗi

Những đứa trẻ chỉ là trẻ con - chính điều này khiến chúng trở nên thú vị, vì thế chúng rất cần sự kiên nhẫn của bạn. Hãy cho con cơ hội để thử nghiệm, khám phá và mắc sai lầm.

19. Sự tự tin

Những người hiểu rõ về giá trị bản thân sẽ có sự tự tin, lòng tự trọng, cảm thấy mình có giá trị.

20. Sự hài hước

Hãy cười với con mỗi ngày … vì lợi ích của chúng và của chính bạn

21. Khoảng thời gian riêng

Hãy dành cho con bạn những khoảng thời gian riêng ngoài việc học hành, bởi ngày nay trẻ con phải mang rất nhiều gắng nặng học trên vai, từ học ở lớp, học thêm... Hãy cho chúng thời gian thư giãn, suy nghĩ và phát triển trí tưởng tượng của mình. Hãy hướng con tới các hoạt động ngoại khóa ngoài trời, hoặc tham gia các buổi đọc sách, những chuyến đi tìm hiểu thực tế...

Văn Hiến
Theo: Lifehack
Đọc tiếp ...

Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

TRÌ NIỆM THẦN CHÚ VÀ CẦU NGUYỆN ĐỂ CHỮA TRỊ BỆNH TẬT

III. TRÌ NIỆM THẦN CHÚ VÀ CẦU NGUYỆN ĐỂ CHỮA TRỊ BỆNH TẬT - (NHỮNG NÉT VĂN HÓA CỦA ĐẠO PHẬT )


Những nét văn hóa đạo Phật - III. TRÌ NIỆM THẦN CHÚ VÀ CẦU NGUYỆN ĐỂ CHỮA TRỊ BỆNH TẬT Phương tiện y khoa hiện đại ngày càng tối tân, nhưng không có nghĩa là mọi bệnh tật đều có thể được chữa trị nhanh chóng và thành công. Bên cạnh thuốc men và sự chăm sóc của bác sĩ, các bệnh nhân sẽ phục hồi nhanh chóng hơn nếu kết hợp thực hành trì chú, ngồi thiền và cầu nguyện với tất cả lòng thành và niềm tin mạnh mẽ.

Câu thần chú được nhiều người xem là linh nghiệm nhất của Phật giáo là “Om mani padme hum”. Người Việt gọi đây là “Lục tự đại minh chân ngôn” (vì gồm có 6 chữ, hay 6 âm) và phát âm là “Án ma-ni bát-di hồng”. Trước hết chúng ta hãy thử tìm hiểu ý nghĩa và sự mầu nhiệm của cầu thần chú vô cùng linh thiêng này.

Ngài Đạt-lai Lạt-ma trong một bài thuyết giảng ngắn gọn đã nhấn mạnh đến phước đức lớn lao của người có duyên may trì câu thần chú Om mani padme hum cùng hiểu rõ ý nghĩa của câu thần chú vĩ đại bao la và vô cùng linh thiêng này.



Om (án)


Âm của ba chữ Phạn là A, U, M nói về thân, khẩu và ý của chúng sinh trong trạng thái bất tịnh và thân, khẩu, ý thanh tịnh của chư Phật. Khi thực hành sự tu tập, chúng ta chuyển hóa thân, khẩu, ý bất tịnh của chúng ta thành thân, khẩu, ý thanh tịnh của chư Phật.


Mani (ma-ni)


Là viên ngọc quý của phương tiện tối thắng, của sự khai mở lòng từ bi và hướng đến tất cả mọi chúng sinh để đem lại an vui hạnh phúc cho họ.


Padme (bát-di)


Là đóa hoa sen trong sạch, là trí tuệ hiển bày khi chúng ta thực hành sự tu tập để lòng từ bi tỏa chiếu. Trí tuệ là sự hiểu biết chân thật, thấy biết rõ ràng, tinh tường mọi thứ, nhưng không bị dính mắc vào các ý tưởng phân biệt cùng với các cảm xúc dấy khởi từ sự phân biệt đó. Nói khác đi là ta trực nhận tính cách rỗng lặng của mọi hiện tượng tâm lý cũng như vật thể. Do đó mà tâm chúng ta trong sạch như đóa hoa sen tinh khiết tỏa hương thơm ngát trong ao đầm bùn lầy.


Hum (hồng)


Là sự siêu vượt mọi đối nghịch, mọi giới hạn, là sự bất khả phân ly, là sự hòa hợp tròn đầy giữa tình thương yêu trong sáng bao la và sự hiểu biết chân thật. Đó chính là thực chất của nguồn hạnh phúc bao la.

Như thế, khi chúng ta nhất tâm trì niệm câu thần chú nhiệm mầu Om mani padme hum và thực hành thiền quán thì chúng ta chuyển hóa thân, khẩu, ý từ trạng thái bất tịnh thành trạng thái thanh tịnh, chuyển hóa tất cả nguồn năng lượng ô nhiễm bởi giận hờn, lo lắng, sợ hãi, khổ đau, phiền muộn thành an vui, thoải mái, tha thứ, thương yêu, thông minh và hạnh phúc.

Y khoa hiện đại ngày nay đã nhìn nhận có sự tương quan mật thiết giữa thân và tâm trong vấn đề phát sinh bệnh tật, cũng như trong vấn đề chữa trị bệnh tật. Do đó, thực hành tu tập không những giúp ta có được đời sống tinh thần an vui hạnh phúc, mà còn giúp ta chữa trị các bệnh tật hiểm nghèo.

Trong các khóa tu thuộc Tịnh độ tông, Thiền tông và Mật tông, người ta áp dụng những phương pháp linh diệu chuyển hóa mọi năng lực tiêu cực thành tích cực. Các hành giả lễ Phật, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, ngồi thiền, thiền hành. Khi thực hành với lòng thành thì họ kinh nghiệm một trạng thái cực kỳ an vui, hoàn toàn buông xả. Trong trạng thái thân tâm như thế, mọi sự cầu nguyện đều có tác dụng tích cực và nhanh chóng. Hành giả còn có thể chuyển những năng lực tích cực đến cho toàn thể đời sống thể chất và tâm linh của mình qua sự quán tưởng thân mình trong sạch và lành mạnh, tiếp xúc trực tiếp với những cảm giác thoải mái và an vui chân thật từ sự quán tưởng nói trên, kinh nghiệm rõ ràng sự thường hằng, sự có mặt vĩnh cửu của Phật tánh nơi mình, luôn luôn trong sáng và rộng lớn vô biên, cùng an hưởng một niềm hạnh phúc vi diệu, tràn dâng không bờ bến.
Đọc tiếp ...

Lời giải mới cho bí ẩn về "giác quan thứ 6" (Theo PLXH)




Nghiên cứu mới chỉ ra, "giác quan thứ 6" khiến nhiều người nhìn thấy tương lai, cảm nhận điều kỳ bí sắp diễn ra là một thủ thuật của não.

Chúng ta vẫn nghe thấy nhiều người nói về "giác quan thứ 6" - khái niệm chỉ khả năng tiếp nhận thông tin của con người qua một kênh siêu nhiên, vượt trội hơn hẳn 5 giác quan bình thường kia. Qua đó, người này có thể linh cảm, dự đoán một điều tốt đẹp hoặc không hay sắp xảy đến trong tương lai. Tuy vậy, khả năng siêu phàm này vẫn là một bí ẩn lớn với nhân loại.

Lời giải mới cho bí ẩn về "giác quan thứ 6"

Một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Australia đã chỉ ra, việc nhìn thấy tương lai hay cảm nhận những điều kỳ bí sắp diễn ra là một thủ thuật của não. Theo đó, tâm lý con người chỉ ý thức được một số ít những ấn tượng cảm nhận bằng 5 giác quan cơ bản: thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác. Những ấn tượng còn sót lại được bộ não cất giữ trong tiềm thức, luôn sẵn sàng đưa ra sử dụng.

Tuy nhiên, trước một vài vấn đề, bộ não con người ngay lập tức đã không đưa được ra cách xử lý thông tin, nên đã tạo ra một cảm giác mơ hồ, không hoàn toàn giải thích được.

Trong một nghiên cứu, các chuyên gia đã mời các tình nguyện viên cùng theo dõi hai bức tranh miêu tả một phụ nữ cùng cặp hình ảnh màu sắc khác nhau. Trong một số lần hình ảnh xuất hiện, kiểu tóc, trang sức, cách trang điểm... của phụ nữ trong bức ảnh sẽ thay đổi. Mỗi bức ảnh sẽ xuất hiện trong 1,5 giây.

Sau khi quan sát hai bức tranh, người tham gia sẽ được hỏi về sự thay đổi xuất hiện trong các bức tranh và được yêu cầu chọn từ một danh sách gồm 9 sự gợi ý, từ hoa tai, vòng cổ, kính, mũ, son môi, quần áo, kiểu tóc...

Kết quả cho thấy, những người tham gia có thể cảm nhận thấy sự thay đổi ngay cả khi họ không thể xác định chính xác những gì đã đổi thay. Hay nói cách khác, mọi người hoàn toàn có thể "cảm thấy", "linh tính" được sự thay đổi đã xảy ra mà không thể mô tả chính xác nó.

Lời giải mới cho bí ẩn về "giác quan thứ 6"
Tiến sĩ Howe thuộc trường ĐH Melbourne đã cho biết: "Một sự thật là nhiều người có thể cảm nhận, linh cảm, tưởng tượng được một điều gì đó mà không cần phải dựa vào giác quan truyền thống như nhìn, nghe, nếm, ngửi và chạm để xác định. Khả năng này được cho là giác quan thứ 6 - ESP".
Tiến sĩ Howe cho rằng, tiềm thức không bao giờ ngưng hoạt động, luôn luôn tích lũy nhờ những thông tin, kinh nghiệm và trí nhớ. Nó là cái kho vô tận để nảy sinh các linh cảm. Cho nên linh cảm không phải là chuyện may mắn, linh cảm chỉ xuất hiện trên một bộ não đã được chuẩn bị sẵn sàng, cùng với sự tư duy phân tích logic để cung cấp những "đầu mối" mà thôi.
Nghiên cứu này được công bố trên tạp chí PLoS ONE.
Đọc tiếp ...

CƠN ĐIÊN NGẮN

 Giận dữ là một cơn điên ngắn - châm ngôn Pháp

Nhiều lần thấy tin thảm khốc, số đông đánh kẻ yếu, người trẻ đánh đạp người già ,bảo mẫu hành hạ tạt nước tát tai ,giẫm đạp  làm  chết trẻ  , bố tưới xăng thiêu con thơ, ông thiêu chết cả nhà,cô ruột đầu độc hai cháu, mẹ quẳng con mới sinh xuống ao    .... Ôi, ngó  tin  hình rùng rợn lạnh gáy tê cóng con tim!Hôm qua lại thấy tivi bên đây đưa tin một bà mẹ đầu độc con mình mới năm tuổi để...trả thù chồng. Đứa trẻ thoát chết  kể lại trong phút  mê man đau bụng kịp thấy mẹ nó ...cười cười bảo... tao muốn mày chết...
.......
Tôi đã nghĩ nhiều lần nghĩ  , rằng   những người ấy thật  bị điên? .Vâng, chỉ có bệnh tật   điên loạn mất trí chứ còn là con người ai  làm  thế? Và tôi cứ nghĩ chỗ của những người ấy phải là trong bệnh viện chứ không phải nơi tù ngục...Nhưng ông bụt nhà tôi lần nào cũng phản đối vợ.Anh ấy nói đó là người ác, người không tim, chứ đừng có đổ vạ cho ...thần kinh.
Chẳng biết thế nào để phân biệt ác nhân hay người  mất trí ? ??? Hẳn có nhiều kẻ ác chạy tội bằng cách nhận mình tâm thần.Và có nhiều người bệnh thực lại phải chịu bản án nặng nề ?!
Ơn giời! từ ngày biết quan sát  thấu hiểu : không kiềm chế được mình , ấy chính là những cơn điên ngắn, tôi đã triệt tiêu hẳn tính nóng như lửa rất đáng xấu hổ  của mình.

Vâng. GIẬN DỮ   LÀ  MỘT CƠN ĐIÊN NGẮN! Cách nghĩ thế này  có giúp được ai không ?!
Đọc tiếp ...

Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2014

RA ĐƯỜNG SỢ NHẤT CÔNG LÔNG ...:D

Hồi nhỏ ở nhà mình luôn là người  thua...  mụ chị kém con em .Cứ xảy ra đụng độ gì là y rằng mình phãi ...phãi mở nhời trước chứ không thì đừng có hòng.Mụ ý sẵn sàng ...ngậm hột thị suốt tuần luôn.Nhiều phen mình đúng hẵn hoi, ức nổ đom đóm mà rồi vưỡn cứ là phãi ...nhún .Điên lắm!!!
Vài  lần cũng muốn thi gan cho biết tay...dưng rồi...mình tuyền phãi  hàng trước .Cay!!!

Sau này chồng con rồi , hai thị  ý vẫn vậy.Mụ chị mình giận chồng dỗi  con cũng vẫn chơi chiêu cũ mèm ấy...Thua !Mình ...phục anh xã chị.Mình bó tay với chị. Chiến tranh lạnh thế , được cái gì , hã Người Giời ???? Con cái đốn  ...nát dư tương vẫn cứ bình chân kệ mịa đời...
Mình biết nhiều chị em hay có kiểu giận dỗi vậy, thậm chí còn dỗi tới ...vài tháng nữa kìa.Có bạn còn mong chồng phãi..đón ý, tự hiểu....Ối giời! Người vầy có mà vào..tiểu thuyết tìm ,nhá !:-)

 Thị em mình  đôi khi  phật ý cái  gì chị  chã biết, em chã nói,  là thị ý cứ  ...im tịt vài tháng luôn chã cần liên lạc hỏi han gì chị thị.Kinh!!!

Chã bù cho mình , hơn hớn tớn tác vô duyên  không biết giống ai .Nhớ dạo yêu nhau, mình xấu tính dăm ngày ba trận giở quẻ.Xã đến khổ xấu hổ lắm phen  với... con vợ rồ.Được mỗi  ưu điểm là ..biết nhận  lỗi.Và tuyệt nhiên không giận hờn lâu bao giờ. Có lần dỗi gã, nghỉ chơi  một ngày, hôm sau lại nhăn nhở sấn tới khoác tay , thôi cho em mượn...mình đi xem phim đi.Kẻo hôm sau nó không chiếu nữa ...Rõ là ...mất giá .Nhỉ ? :-)

Trước bé  thấy mình sao khổ , sao thiệt thòi quá .Giờ gẫm , lại thấy ...thấy thương cho hai thị kia  vô cùng!
Đời  ngắn tũn.Có biết một ngày trôi là mất một ngày không?! Cứ ...im thít thế thì giải quyết cái gì ? Bao giờ mới biết đối thoại ôn hòa  với nhau, định sống ơ  thờ  như thế  đến ...nhắm mắt ????
Lại nhớ ông anh rể từng than :
Ra đường sợ nhất công nông, về nhà sợ nhất vợ ..không nói gì ! 
Thật là cố nghĩ vui mà cười ..hổng nổi  :(
Đọc tiếp ...

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2014

MỤC ĐÍCH CỦA THIỀN ( NHỮNG NÉT VĂN HÓA CỦA ĐẠO PHẬT )

III. MỤC ĐÍCH CỦA THIỀN


Những nét văn hóa đạo Phật - III. MỤC ĐÍCH CỦA THIỀN Thiền là một tông phái của Phật giáo chú trọng nhiều đến thực hành. Những gì đức Phật kinh nghiệm và giảng dạy thì thiền chủ trương phải đạt được như thế. Một người chỉ hiểu lời đức Phật dạy khi họ có được kinh nghiệm về trạng thái tâm linh như đức Phật. Nếu không, họ chỉ biết chữ nghĩa mà không biết sự chân thật của đạo.

Trước khi giác ngộ, đức Phật cũng có những xao xuyến nội tâm, những khắc khoải về ý nghĩa cuộc sống và những khổ đau vì thấy nhiều điều bất như ý xảy ra quanh mình. Ngài phải lặn lội đi tìm lời giải đáp qua thiền định, qua những năm tháng tu hành khổ hạnh, để rồi tự mình tìm ra được chân lý vượt trên tất cả những gì đã nghe nói.

Nếu chúng ta thực hành thiền (hay các pháp môn Tịnh độ, Mật tông.v.v...) ta cũng có thể kinh nghiệm được sự thật đó. Lúc ấy, ta trực nhận tâm ta chỉ thuần là một tình thương yêu trong sáng (từ bi), sự hiểu biết chân thật (trí tuệ) và nguồn an vui vô cùng (Cực lạc hay Niết-bàn). Tuy nhiên, vì thói quen hay bám víu, dính mắc, thích ràng buộc vào các ý tưởng phân biệt như “tôi tốt, người kia xấu; tôi hiền lành, người kia hung dữ; tôi phải, người kia quấy.v.v...” làm khơi dậy các tình cảm vui buồn, thương ghét, sướng khổ, thân thù... mãi mãi không thôi. Những thứ ấy tạo ra sự căng thẳng, những áp lực, những sự khó chịu làm ta khổ đau.

Tâm ta như bầu trời trong xanh bao la, các ý tưởng và tình cảm vui buồn, thương ghét chỉ như những đám mây bay qua. Nếu chúng ta không bám víu, dính mắc vào chúng, thì chúng sẽ kéo đến và bay đi như những đám mây, chẳng để lại dấu vết. Dù có muôn ngàn đám mây bay qua bầu trời, bầu trời vẫn luôn không chút nhiễm ô, không chút thay đổi. Cũng thế, nếu ta không đồng hóa, không tự nhận mình là các ý tưởng, các tình cảm đó thì chúng sẽ lặng lẽ trôi đi và tâm ta lúc nào cũng là bầu trời trong sáng bao la.

Thiền là quay về với bầu trời trong sáng tự nhiên đó, là sống với tâm thức linh động bén nhạy để nhận biết tất cả mọi phản ứng, mọi ý tưởng, mọi cảm xúc, trực nhận tất cả mọi thứ xuất hiện bên trong cũng như bên ngoài mà không chút sợ hãi, không chút đè nén, không loại trừ, không biện minh hay không nhận biết chúng qua cơ chế tự vệ tâm lý nơi mỗi chúng ta. Sống được như thế thì ta không phân chia tâm mình ra hai phần: phần ý thức và phần vô thức, vì tất cả mọi hiện tượng tâm lý đều được trực tiếp nhận biết như thực, không thêm bớt. Đó chính là sống đạo, sống đời giác ngộ chân thật.

Ở đây, chúng ta thấy có một sự gặp gỡ giữa thiền và phân tâm học. Cả hai đều chú trọng đến sự giải phóng con người ra khỏi tâm bệnh để con người được an vui hạnh phúc hơn. Nhưng một bên cần có bác sĩ để giúp cho bệnh nhân thấy rõ, biết rõ những động lực ham muốn, những mặc cảm tội lỗi, những sự tức giận, những khổ đau đang nằm sâu trong chốn vô thức và đang tác động vào đời sống của họ; trong khi bên kia nhấn mạnh đến sự tỉnh thức của thiền sinh (hay bệnh nhân), chính họ phải nỗ lực quán chiếu, nhìn sâu vào tâm mình để biết rõ những ý tưởng và phản ứng biểu lộ qua những tình cảm vui buồn, thương ghét của mình mà không chút dính mắc vào chúng. Từ đó, họ biết rõ qua kinh nghiệm cụ thể một trạng thái tự do và an vui tuyệt đối.

Trong Thiền, vai trò của vị thầy cũng quan trọng, nhưng vị thiền sư chỉ là người giúp đỡ bên ngoài chứ không đóng vai trò quyết định như bác sĩ trong ngành phân tâm. Vị thầy chân thật thúc giục thiền sinh phải nỗ lực tối đa trên con đường tự giải phóng mình ra khỏi mọi sự nô lệ, kể cả sự nô lệ vào hình tượng hay sự sùng thượng vị thầy.
Đọc tiếp ...

NHỮNG NÉT VĂN HÓA ĐẠO PHẬT ( Thích Phụng Sơn biên soạn - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính)

Những nét văn hóa đạo Phật

Thích Phụng Sơn biên soạn - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

TRÍ TUỆ HAY SỰ THẤY BIẾT CHÂN THẬT


Những nét văn hóa đạo Phật - TRÍ TUỆ HAY SỰ THẤY BIẾT CHÂN THẬT Đức Phật thấy rõ hoàn cảnh xã hội và tâm linh bế tắc đó. Ngài muốn tìm lời giải đáp chân thật không dựa trên sự suy luận, cảm xúc hay niềm tin không căn cứ. Do đó, sau sáu năm tu tập trong rừng và bốn mươi chín ngày thiền định dưới cội bồ-đề, Ngài đã đại ngộ, nhìn thấu rõ mọi sự vật (vạn pháp) trong vũ trụ như sau:

– Sự thấy biết mọi sự kiện trong vũ trụ và đời sống con người một cách chân thật (như thực tri kiến) xuất hiện tự nhiên khi ta không còn dính mắc với các ý tưởng đối nghịch, mâu thuẫn làm khơi dậy lòng ham muốn, giận dữ, thù hận,v.v... đưa đến xáo trộn và khổ đau.

– Chủ trương tận hưởng dục lạc hay sống đời khổ hạnh, hành hạ thân xác mình chỉ là hai cực đoan của sự trốn chạy cuộc sống. Sống phải là sống hạnh phúc, vì hạnh phúc vốn là tánh tự nhiên, chân thật hay là Phật tánh sẵn có nơi mỗi chúng ta. Khi ta sống tỉnh thức với sự chú tâm tự nhiên, với sự thấy biết trực tiếp không lựa chọn (trực thức vô trạch) mọi sự kiện, thì mọi sự vật đều hiện ra một cách chân thật, trong sáng, tràn đầy. Những xáo trộn, mâu thuẫn, xung đột do sự thấy biết sai lầm đều tan biến. Tâm ta quay về với sự trong sáng tự nhiên của nó, với niềm hạnh phúc bao la tràn đầy.

Thực hành lối sống an lành và hạnh phúc đó là sống Trung đạo, là đi ở giữa, tránh cả hai sự cực đoan sai lầm nói trên. Đó cũng chính là sống đời giải thoát hay giác ngộ.

– Do đó, con người không cần phải hy sinh cho một ước mơ được sung sướng trên thiên đàng mai sau mà quên đi cuộc sống hiện tại, nhưng cũng không nên đắm mình vào khoái lạc vật chất để tìm kiếm sự thỏa mãn dục lạc mãi mãi không ngừng. Sự khổ hạnh, ép xác để mong lên thiên đàng cùng sự hưởng thụ vật chất theo chủ nghĩa khoái lạc đều làm cho tâm trí mê mờ và thân xác mệt mỏi. Người thực hành đạo giác ngộ sống hạnh phúc nơi Trung đạo. tức là ở giữa hai sự cực đoan sai lầm của các chủ trương khổ hạnh hoặc hưởng lạc nói trên, và sống an vui thoải mái với sự hiểu biết chân thật trong đời sống hằng ngày.

– Sự hiểu biết chân thật đó không dựa vào lý luận viễn vông mà do nơi kinh nghiệm tâm linh: tánh tự nhiên của mỗi chúng ta là chân tánh hay Phật tánh. Tánh ấy vốn không có bắt đầu và tận cùng (bất sinh bất diệt), rộng lớn bao la, trong sáng, an vui, tràn đầy tình thương yêu (từ bi) và sự hiểu biết chân thật (trí tuệ). Chân tâm hay Phật tánh nơi mỗi chúng ta luôn luôn rỗng lặng, tinh sạch, trong sáng, linh động, tràn đầy, đồng thời rộng lớn bao la nên không có một cái gì gọi là Tiểu ngã (Atman), một cái tôi nhỏ bé cần phải thanh lọc dần dần để trở về với Đại ngã (Brahm hay Thượng đế).

– Sống an vui giác ngộ ngay trong cuộc đời này là sống với tâm hiểu biết chân thật: thấy biết rõ ràng mọi thứ, mọi hiện tượng nhưng với tâm buông xả, không dính mắc vào các ý tưởng phân biệt như hay dở, tốt xấu, làm khơi dậy các tình cảm như vui buồn, thương ghét, thân thù... thì tâm luôn luôn tĩnh lặng. Cái tôi (ngã) mà lâu nay ta luôn luôn bảo vệ, đề cao chẳng qua là sự tiếp nối không ngừng của các ý tưởng và cảm xúc. Khi các ý tưởng và cảm xúc lắng dịu đi thì cái tôi nhỏ bé (ngã) cũng tan biến, nên ta trực nhận được cái tôi ấy (ngã) vốn là rỗng lặng (không) hay vô ngã. Các ý tưởng và cảm xúc thường là các đám mây che mờ chân tâm. Phật tánh luôn luôn tỏa sáng nơi ta. Mây tan đi thì mặt trời chiếu sáng. Sự mê mờ (vô minh) tan đi thì chân tâm, Phật tánh, cũng chính là niềm hạnh phúc trong sáng bao la sẽ tràn đầy nơi ta.

– Tính cách vô ngã hiện hữu nơi mọi sự vật. Mọi sự vật hiện hữu đều là do nhiều yếu tố hợp thành. Chúng ta có thể lấy ví dụ như một chiếc xe hơi là do sự kết hợp của khung xe, mui xe, động cơ, bình xăng, dây điện, cảng xe... Rồi nhờ có người thợ lắp ráp, thiết kế của các kỹ sư, quyết định sản xuất của công ty sản xuất, vật liệu do các công ty khác cung cấp, v.v... Chiếc xe hiện hữu được là do nhiều yếu tố như trên hợp thành. Nó không tự có mặt và không có cá tính riêng biệt. Nếu các yếu tố hợp thành chiếc xe thay đổi thì nó cũng thay đổi theo. Như mỗi năm công ty sản xuất có thể thay đổi hình dáng, máy móc, màu sơn... để hấp dẫn khách hàng thì mỗi năm xe cũng đổi mới liên tục. Cùng một hiệu xe như Mercedes, Ford hay Toyota Celica nhưng tùy theo các yếu tố hợp thành chiếc xe theo năm sản xuất, chúng hoàn toàn khác nhau về màu sắc, hình dáng, máy móc, độ bền... Cùng một tên gọi nhưng chúng hoàn toàn khác nhau về phẩm chất cũng như hình dáng. Tuy nhiên, chúng ta thường có thói quen cho rằng mỗi sự vật đều có tánh riêng biệt và không thay đổi, trong khi sự thật là mọi sự vật đều liên tục thay đổi. Sự thay đổi không ngừng đó gọi là vô thường.

– Sự thay đổi của sự vật xảy ra từng giây phút một. Lấy ví dụ như khi nói đến “chiếc xe của ta” thì ta liền hình dung ra một hình ảnh cố định về chiếc xe ấy. Nhưng thật ra thì kể từ khi mua xe cho đến nay ta đã thay các bánh xe mới, bộ thắng mới, bình điện mới, bình lọc dầu mới... nước sơn cũng không còn bóng như trước và khung xe đã bắt đầu có những chỗ han gỉ.

Các bộ phận kết hợp thành chiếc xe (sinh), chiếc xe tồn tại trong một thời gian (trụ), chiếc xe biến đổi, hư hao (dị), và cuối cùng nó bị tan rã (diệt). Chiếc xe phế thải được kéo vào nghĩa trang xe. Người cần các bộ phận còn tốt sẽ đến mua về ráp lại vào xe khác. Cuối cùng, người ta ép dẹp những phần còn lại, chuyển đến các nhà nấu thép, đúc thành các bộ phận xe mới và ráp thành chiếc xe khác.

– Tính cách sinh diệt, diệt sinh đó là tính cách vô thường của mọi sự vật. Vô thường có nghĩa là các sự vật không tồn tại mãi mãi và luôn luôn biến đổi. Chiếc xe đạp tồn tại khoảng 10 năm, xe hơi trên 20 năm, tuổi thọ con người khoảng 100 năm, mặt trời tồn tại khoảng 10 tỷ năm... Từ một vật thật nhỏ như tế bào trong cơ thể, đến một vật lớn như mặt trời, cũng đều chuyển biến qua bốn giai đoạn: do nhiều yếu tố kết hợp thành (sinh), tồn tại trong một thời gian (trụ), biến đổi và hư hao (dị), cuối cùng là tan rã (diệt). Và những yếu tố sau khi tan rã lại kết hợp để thành các sự vật khác, tiếp nối mãi mãi không ngừng. Tính cách vô thường ấy diễn ra khắp mọi nơi, ở cả bên trong và bên ngoài chúng ta.

– Khi đã hiểu rõ tính cách vô thường, vô ngã của các sự vật, chúng ta không còn sợ hãi trước sự thay đổi, chuyển biến, và lòng ta trở nên thoải mái, tâm ta trở nên tỉnh thức hơn trong mối tương quan với người và vật. Ta không nhìn sự vật hay con người theo thói quen máy móc dựa vào những định kiến sẵn có về người hay vật đó. Thói quen ấy ngăn cản ta tiếp xúc với thực tại, những gì đang thực sự có mặt trong đời sống.

Trong mỗi giây phút, mỗi cành lá, đám mây, bông hoa, cánh bướm, dòng sông, điệu nhạc, người đàn ông, đàn bà, trẻ em, hòn sỏi, chiếc xe... đều hiện hữu hoàn toàn, như thế ấy. Tất cả đều không dính dáng gì đến các ý tưởng khen chê, phê phán, cùng các cảm xúc dấy lên từ sự phê phán ấy làm ta vui, buồn, thương, ghét. Nếu có dịp nhìn sâu vào lòng mình (quán chiếu nội tâm) thì chúng ta sẽ thấy các ý tưởng và cảm xúc thường lặp đi lặp lại mãi theo khuynh hướng như sau: Điều gì ta nghĩ là hay, tốt thì ta ưa thích, ca ngợi; điều gì ta cho là dở, xấu thì ta ghét bỏ, thù hận hay phỉ báng.

Nhưng cái mà ta cho là tốt hay xấu ấy lại thay đổi không ngừng. Hôm nay ta nghĩ nó là tốt thì ngày mai ta có thể chê là xấu; hôm nay ta cho là đúng nhưng ngày mai lại thành ra sai. Do đó mà các cảm xúc vui, buồn, thương, ghét, thân, thù... luôn luôn trỗi dậy như những luồng sóng mãi mãi nối tiếp trên mặt biển, làm ta chịu nhiều áp lực do sự xung đột bên trong và sự đụng chạm bên ngoài.

– Nếu ta thực hành sự tỉnh thức, sự thấy biết chân thật thì tâm tự buông xả, không để mình dính mắc vào các ý tưởng đối nghịch, những sự phê phán, phân biệt thường xuyên kéo đến. Khi ấy, tâm ta tự nhiên lắng dịu dần, như khi mặt biển không còn gió thổi thì trở nên yên tĩnh. Đó là sự tỉnh thức đã có mặt nơi ta. Với tâm tỉnh thức ấy ta nhìn mọi sự vật thì chúng đều hiện rõ tánh chân thật: trong sáng, rỗng lặng, tươi mát, tràn đầy. Đó là tánh chân thật tự nhiên, tánh rỗng lặng hay là tánh không của vạn pháp. Thấy biết như thế gọi là sự thấy biết chân thật hay trí tuệ. Như thế, khi tâm ta thanh tịnh thì mọi sự vật (vạn pháp) trở nên thanh tịnh. Khi ta khởi lên sự phân biệt ưa ghét thì lập tức ta phân chia mọi thứ thành hai phía đối đãi: thân thù, cao thấp, sang hèn, thân sơ... từ đó nổi lên các cảm xúc thương yêu - thù hận, thích thú - sợ hãi, thân tình - xa lạ, sung sướng - khổ đau, ưa muốn - ghét bỏ...

– Sự phân biệt ấy là một thói quen do sự điều kiện hóa từ lúc chúng ta sinh ra cho đến nay, làm chúng ta phản ứng như một người máy, như một máy điện toán đã được lập trình cách giải quyết các vấn đề theo những công thức nhất định. Sự lặp đi lặp lại những cảm xúc thương ghét, vui buồn... ấy dần dần trở thành một thói quen mà ta nhầm tưởng đó là con người thật sự của mình. Sự tỉnh thức, sự chú tâm thoải mái tự nhiên đưa tâm ta trở về với sự tươi mát linh động, rỗng lặng, tinh sạch, rộng lớn tự nhiên của nó. Từ đó ta nhìn thấy rõ ràng mọi sự vật, thoát ra khỏi mọi sự lôi kéo, ràng buộc, mê hoặc của các ý tưởng, cảm xúc nơi ta hay những người quanh ta. Chúng ta thoát ra được thói quen phản ứng theo điều kiện quy định sẵn như kiểu máy điện toán nói trên.

–Sống tỉnh thức như thế thì sự hiểu biết chân thật (trí tuệ) tự hiển bày, tự biểu lộ. Tâm ta tự nó quay về với sự an ổn, thoải mái, trong sáng, rộng lớn và rỗng lặng của chính nó. Từ chốn ấy, tình thương yêu bao la, nồng ấm (từ bi) bừng dậy. Mọi sự vật trở thành linh động, tươi sáng, yên ổn, tươi mát, khi ta nhìn chúng với con mắt thương yêu: hoa lá rực rỡ, cảnh vật vui tươi, mây trời trong sáng, người vật nhộn nhịp...

Khi tình thương yêu bừng dậy thì nguồn hạnh phúc chảy tụ lại thành biển lớn, đưa ta đến chốn an lạc vô cùng. Từ đó ta kinh nghiệm được, hiểu biết được một cách cụ thể và trực tiếp rằng: sự hiểu biết chân thật (trí tuệ), tình thương yêu rộng lớn (từ bi) và nguồn hạnh phúc trong sáng, bao la là ba khía cạnh của chân tâm, Phật tánh. Khi một trong ba yếu tố này xuất hiện thì hai yếu tố kia cũng xuất hiện, như một bó đuốc lớn cháy rực rỡ không thể tách lìa thành ba ngọn lửa khác nhau.

Như mặt trời tỏa ra ánh sáng cùng khắp, ánh sáng ấy cũng là năng lượng có sự ấm áp. Ta không thể tách rời ánh sáng và sự ấm áp được. Cũng thế, tình thương yêu bao la, sự hiểu biết chân thật và nguồn hạnh phúc trong sáng vốn là một, không thể tách lìa. Một thứ có mặt thì hai thứ kia cũng có mặt.

– Khi tâm quay về với tánh tự nhiên rộng lớn, an lạc của nó thì ta trực nhận, thấy biết một cách rõ ràng, cụ thể và chân thật: khổ đau không có thật. Khổ đau là một yếu tố không cần thiết cho đời sống. Nó chẳng khác gì những sự cay đắng ta tự thêm vào đời sống, mà vì mê mờ (vô minh) nên ta thấy là quá buồn chán và tẻ nhạt.

– Tình thương yêu trong sáng, bao la (từ bi) luôn luôn tỏa sáng rực rỡ nơi ta. Do đó, ta làm các điều tốt đẹp cho đời: giúp đỡ người bị nạn, đói khổ; chăm sóc những kẻ không may. Đó cũng là sự hiểu biết chân thật (trí tuệ), nhận biết rõ rằng mọi sự vật vốn vô thường, vô ngã, nên thấy rõ mỗi sự vật đều hiện hữu một cách chân thật, tràn đầy, trong sáng và rỗng lặng. Từ bi và trí tuệ cũng chính là suối nguồn hạnh phúc trong sáng bao la (chân lạc) luôn luôn tỏa đầy, chiếu sáng và có mặt nơi ta.

– Tình thương yêu rộng lớn, sự thấy biết chân thật và nguồn hạnh phúc trong sáng tràn đầy là tánh tự nhiên sẵn có nơi chúng ta. Đó là tánh chân thật tự nó hiện hữu, đó là chân tâm, là Phật tánh, mãi mãi có mặt (chân thường), không chút đổi thay từ giây phút này qua giây phút khác (chân ngã), không có gì làm cho nó trở thành nhơ bẩn, sứt mẻ hay mê mờ (chân tánh). Tánh chân thật tự nhiên đó là nguồn an vui kỳ diệu, thâm sâu, tươi mát, linh động, tràn đầy, bất tận (chân lạc). Vì ta vô tình lãng quên nên không nhận biết, không sống với niềm an lạc kỳ diệu có sẵn nơi ta mà thôi.
Đọc tiếp ...